Doanh nghiệp Nhật Bản rót vốn vào Hà Nội Hà Nội: 15 tiện ích đồng bộ, hiện đại phục vụ người dân và doanh nghiệp làm TTHC |
Chỉ tính riêng giai đoạn 1 (từ ngày 1/1/2024), Sở Giao thông vận tải Hà Nội (nay là Sở Xây dựng Hà Nội) đã điều chỉnh lộ trình 10 tuyến, dừng hoạt động 5 tuyến, điều chỉnh lộ trình kết hợp điều chỉnh tần suất dịch vụ với 12 tuyến, điều chỉnh tần suất dịch vụ 43 tuyến. Các tuyến sau điều chỉnh tỷ lệ trợ giá/chi phí ước đạt 77% (trước điều chỉnh là 85%), giúp phí trợ giá giảm được khoảng 193 tỷ đồng/năm. Sự điều chỉnh, thay đổi trên các tuyến ban đầu đã ít nhiều gây ra sự bất tiện, tuy nhiên qua khảo sát, phần lớn hành khách vẫn đánh giá chất lượng phục vụ bảo đảm.
Trong giai đoạn 2, thành phố Hà Nội thực hiện điều chỉnh lộ trình, dịch vụ đối với 22 tuyến buýt (9 tuyến điều chỉnh lộ trình; 8 tuyến điều chỉnh lộ trình và tần suất; 5 tuyến điều chỉnh tần suất). Trong các tuyến điều chỉnh, đáng chú ý là các tuyến 03B (Bến xe Nước Ngầm - Giang Biên) điều chỉnh lộ trình kết nối vào các khu dân cư, trường học do hiện tại tuyến đi qua các khu vực có nhu cầu đi lại bằng xe buýt thấp.
Tuyến 104 (Mỹ Đình - Bến xe Nước Ngầm) điều chỉnh lộ trình đi Giải Phóng - Nguyễn Hữu Thọ nhằm giảm quãng đường vòng, giảm cự ly tuyến và giảm thời gian di chuyển cho hành khách. Hay như tuyến 22C (Bến xe Giáp Bát - Khu đô thị Dương Nội) điều chỉnh điểm đầu cuối vào Khu đô thị Đô Nghĩa nhằm kết nối với Bệnh viện Nhi Hà Nội…
Tính đến ngày 30/7/2025, thành phố đã thực hiện điều chỉnh lộ trình, dịch vụ, tần suất đối với 18/22 tuyến buýt. Trung tâm Quản lý và điều hành giao thông thành phố Hà Nội đang phối hợp với các đơn vị liên quan thực hiện 4 tuyến còn lại (bao gồm 122, 142, 144, 161) trong thời gian tới.
Những thay đổi này không chỉ phù hợp với điều kiện thực tế và nhu cầu đi lại của người dân mà còn góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng dịch vụ, qua đó thúc đẩy đáng kể sản lượng hành khách sử dụng phương tiện công cộng. Đây là tín hiệu vui cho mục tiêu phát triển giao thông bền vững của Thủ đô.
![]() |
Hà Nội điều chỉnh luồng tuyến xe buýt giúp hành khách hưởng lợi. Ảnh minh hoạ |
Ông Nguyễn Thanh Nam - Tổng Giám đốc Tổng công ty Vận tải Hà Nội (Transerco) - cho biết, trong 6 tháng đầu năm 2025, Transerco đã chủ động rà soát, đề xuất Sở Xây dựng Hà Nội điều chỉnh biểu đồ vận hành 16 tuyến xe buýt để phù hợp hơn với nhu cầu đi lại của hành khách. Đồng thời, công ty cũng đã hợp lý hóa luồng tuyến 11 tuyến xe buýt và tổ chức lại 2 tuyến nhánh nhằm tối ưu hóa lộ trình, tăng cường kết nối và nâng cao hiệu quả vận hành. Nhờ những nỗ lực này, tổng sản lượng khách vận chuyển của Transerco đã đạt trên 125 triệu lượt hành khách, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước và chiếm trên 56% sản lượng khách toàn mạng lưới xe buýt của thành phố.
Theo ông Thái Hồ Phương - Giám đốc Trung tâm Quản lý và điều hành giao thông thành phố Hà Nội, để phát huy hiệu quả hoạt động của xe buýt và từng bước giảm trợ giá từ ngân sách, Trung tâm đã cùng các đơn vị liên quan tiến hành rà soát, báo cáo thành phố xem xét điều chỉnh, từng bước hợp lý hóa luồng tuyến. Chỉ tính riêng giai đoạn 1 (từ ngày 1/1/2024), Sở Giao thông vận tải Hà Nội (nay là Sở Xây dựng Hà Nội) đã điều chỉnh lộ trình 10 tuyến, dừng hoạt động 5 tuyến, điều chỉnh lộ trình kết hợp điều chỉnh tần suất dịch vụ với 12 tuyến, và điều chỉnh tần suất dịch vụ 43 tuyến. Kết quả là tỷ lệ trợ giá/chi phí của các tuyến sau điều chỉnh ước đạt 77% (trước điều chỉnh là 85%), giúp phí trợ giá giảm được khoảng 193 tỷ đồng/năm.
Theo Sở Xây dựng Hà Nội, để tiếp tục nâng cao chất lượng phục vụ hành khách và hiệu quả hoạt động của các tuyến, các đơn vị chức năng sẽ thường xuyên rà soát, kịp thời điều chỉnh và hợp lý hóa luồng tuyến. Tùy theo mức độ đánh giá của từng tuyến (ví dụ: tỷ lệ trợ giá cao so với trung bình toàn mạng lưới, hệ số sử dụng sức chứa thấp, hệ số trùng lặp tuyến cao), các phương án xử lý phù hợp sẽ được đề xuất.
Các phương án này bao gồm điều chỉnh lộ trình từng tuyến, điều chỉnh tần suất dịch vụ, điều chỉnh sức chứa phương tiện, hoặc thậm chí dừng hoạt động tuyến khi xuất hiện các yếu tố mới trong mạng lưới giao thông đô thị của thành phố, chẳng hạn như các công trình giao thông thi công và hoàn thiện, hay các tuyến đường sắt đô thị đi vào hoạt động đòi hỏi phải điều chỉnh kết nối.