Gỡ bỏ thách thức để phát triển nuôi trồng thủy sản biển với du lịch

16:10 16/08/2023

Ngành nuôi biển Việt Nam còn gặp không ít khó khăn. Đầu tiên là về quy mô sản xuất, hầu hết các trại nuôi trên biển đều là quy mô hộ gia đình, dẫn đến các vấn đề từ con giống, lồng bè, dịch bệnh đến bán sản phẩm...

Sáng 16/8, tại Hà Nội, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp cùng báo Nông thôn ngày nay/Dân Việt đã tổ chức một buổi tọa đàm trực tuyến với chủ đề: “Phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển - Cơ hội và thách thức”.

Ông Trần Công Khôi, Trưởng phòng Giống và thức ăn thủy sản, Cục Thủy sản, cho biết, Việt Nam có khoảng 500.000 ha mặt nước có thể được sử dụng để nuôi trồng thủy sản trên biển (nuôi biển). Đây là một tiềm năng rất lớn. Có nhiều vùng và địa phương có khả năng phát triển nuôi biển. Các loại đối tượng nuôi cũng rất đa dạng, từ cá đến nhuyễn thể như ngao, sò, hàu, cũng như giáp xác như tôm hùm, và cả nhóm rong biển đang mang nhiều tiềm năng để phát triển.

Ông Đặng Xuân Trường, Trưởng phòng Khuyến ngư, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, chia sẻ, từ những mô hình bền vững, trung tâm đã kết nối với các viện, trường có công nghệ tốt nhất để chuyển giao kỹ thuật nuôi biển cho người dân ở Khánh Hòa, Quảng Ngãi, Kiên Giang, Ninh Thuận, Bình Thuận...

Gỡ bỏ thách thức để phát triển nuôi trồng thủy sản biển với du lịch
Gỡ bỏ thách thức để phát triển nuôi trồng thủy sản biển với du lịch.

"Không phải công nghệ nào cũng phù hợp với điều kiện đầu tư của người dân và vùng miền. Do đó, trung tâm đang hợp tác với các viện nghiên cứu để hỗ trợ người dân và đào tạo, tuyên truyền để họ có thể tiếp cận các công nghệ mới và áp dụng chúng hiệu quả", ông Đặng Xuân Trường nói.

Các mô hình hiệu quả đã được truyền thông và tổ chức tham quan để người nông dân học hỏi. Những mô hình này tập trung vào việc nuôi các loại sản phẩm có giá trị kinh tế cao như cá song, cá giò, tôm hùm, giáp xác, nhuyễn thể... Nhờ vào những hoạt động khuyến nông này, diện tích nuôi biển đã chuyển sang sử dụng các công nghệ mới ngày càng tăng.

Ông Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam, cho rằng, để phát triển du lịch cộng đồng ở các vùng nuôi biển, hai ngành này cần phải nâng cấp trình độ chuyên môn. Ông cho rằng, để cả hai ngành này phát triển cùng nhau và tận dụng tốt mặt nước biển, cần tích hợp nhiều ngành kinh tế biển khác nhau. Ông tin rằng, việc tích hợp này sẽ giúp Việt Nam phát triển một ngành kinh tế biển bền vững và hiệu quả.

Ông Trần Công Khôi hy vọng rằng Việt Nam sớm sẽ có các "thành phố nuôi trên biển". "Kết hợp nuôi trồng thủy sản biển với du lịch là điều tuyệt vời. Các tỉnh cần phải nhanh chóng tạo ra giải pháp để phát triển hài hòa giữa du lịch và nuôi thủy sản biển," ông Khôi nhấn mạnh.

Đối với tiêu thụ sản phẩm, ông Nguyễn Hữu Dũng đánh giá, thị trường hải sản luôn không đủ cung với sản phẩm chất lượng cao và được chứng nhận.

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa.

Để đưa sản phẩm nuôi biển ra thị trường thế giới, cần có một sản lượng hàng hóa lớn và đồng nhất về chất lượng. Điều này yêu cầu việc phát triển vùng nuôi lớn, sản xuất theo chuỗi và có chứng nhận quốc tế.

Hiện nay, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sản phẩm tươi sống sang Trung Quốc. Để mở rộng thị trường xuất khẩu, cần phải phát triển các cơ sở chế biến. Mặc dù đã có nhiều nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu, nhưng vẫn chưa có nhà máy nào chế biến tôm hùm hay cá trình, theo ông Nguyễn Hữu Dũng.

Ông Đặng Xuân Trường nêu rõ rằng, các mô hình khuyến nông sẽ hướng tới việc liên kết với các hợp tác xã để tạo thành các chuỗi cung ứng. Ông đặc biệt nhấn mạnh đưa vào các mô hình gắn với du lịch, như ở Vân Phong, Khánh Hòa hoặc Phất Cờ, Quảng Ninh để tiêu thụ sản phẩm.

Tuy nhiên, ông Nguyễn Hữu Dũng cũng nhấn mạnh, ngành nuôi biển Việt Nam còn gặp không ít khó khăn. Đầu tiên là về quy mô sản xuất, hầu hết các trại nuôi trên biển đều là quy mô hộ gia đình, dẫn đến các vấn đề từ con giống, lồng bè, dịch bệnh đến bán sản phẩm... Điều này tạo ra rủi ro lớn cho những người nuôi, đặc biệt khi họ phải đối mặt với những thất thoát do bão.

Thêm vào đó, quy mô hộ gia đình cũng đồng nghĩa với việc đầu tư vào trại nhỏ, sự thiếu hụt về cơ giới hóa và tiến bộ kỹ thuật, hầu hết các bè nuôi đều thủ công và sử dụng các vật liệu có thể gây hại cho môi trường.

Các chuỗi nuôi biển đang ngày càng mạnh mẽ, nhưng vẫn chưa có sự kết nối hoặc cung cấp cá giống, thức ăn cho người nuôi, dẫn đến việc kiểm định chất lượng chưa được thực hiện chặt chẽ.

Ông Nguyễn Hữu Dũng cũng cho biết, mặc dù có nhiều chính sách hỗ trợ nuôi biển, nhưng việc tiếp cận các chính sách này vẫn khá khó khăn. Ví dụ, mặc dù các bè nuôi có giá trị hàng tỷ đồng, nhưng chúng vẫn chưa được xem xét là tài sản có thể thế chấp để vay vốn.

Dù Luật Thủy sản có hiệu lực từ năm 2019, nhưng vẫn chưa có đơn vị nào được cấp vùng biển đủ lớn để nuôi trồng. Hay việc thực hiện Nghị định số 11/2021/NĐ-CP quy định việc giao các khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển vẫn chưa có hiệu quả.

Ông Nguyễn Hữu Dũng cho rằng, hiện tại quy hoạch không gian biển quốc gia đang chậm trễ. Nếu không có quyền sử dụng vùng biển một cách lâu dài, thì ngư dân sẽ không thể đầu tư vào công nghệ mới như lồng nhựa HDPE.

P.V (t/h)