Giá lúa gạo tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, giá gạo biến động nhẹ. Thị trường lượng ít, gạo các loại trong nước tương đối ổn định, lúa tươi chững giá.
![]() |
Giá lúa gạo hôm nay 21/5/2025: Giá gạo nguyên liệu nhích nhẹ, phụ phẩm tiếp đà bật tăng |
Giá gạo trong nước
Theo ghi nhận, giá gạo nguyên liệu hôm nay tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long giá gạo nguyên liệu hôm nay có chiều hướng tăng nhẹ. Cụ thể, gạo nguyên liệu IR 504 tăng 50 đồng/kg, lên mức 8.250 – 8.350 đồng/kg. Giá gạo nguyên liệu CL 555 hiện giao dịch ở mức 8.600 – 8.800 đồng/kg; gạo OM 380 dao động 8.000 – 8.100 đồng/kg; OM 18 ở mức 10.200 – 10.400 đồng/kg; gạo Jasmine hiện ở mức 17.000 – 18.000 đồng/kg.
![]() |
Bảng giá gạo hôm nay 21/5/2025 |
Tại các chợ bán lẻ, giá gạo bình ổn. Gạo thơm phổ biến 18.000 - 22.000 đồng/kg; gạo thường 15.000 - 16.000 đồng/kg; gạo thơm Thái 20.000 - 22.000 đồng/kg; Hương Lài niêm yết 22.000 đồng/kg. Đặc biệt, gạo Nàng Nhen vẫn giữ mức cao nhất với giá 28.000 đồng/kg.
Phân khúc nếp hiện chưa có nhiều biến động. Nếp IR 4625 (khô) dao động từ 9.700 – 9.900 đồng/kg; các loại nếp tươi và khô khác duy trì mức giá từ 7.700 – 8.000 đồng/kg.
![]() |
Bảng giá nếp hôm nay 21/5/2025 |
Mặt hàng phụ phẩm
Nhóm phụ phẩm ghi nhận bước tăng rõ rệt trong phiên hôm nay 21/5. Tấm OM 5451 hiện dao động ở mức 7.500 – 7.600 đồng/kg. Đáng chú ý, giá cám tiếp tục tăng thêm 200 đồng/kg, lên mức 7.900 – 8.200 đồng/kg. Giá trấu dao động cao từ 1.000 – 1.150 đồng/kg.
![]() |
Bảng giá phụ phẩm hôm nay 21/5/2025 |
Giá lúa trong nước
Theo cập nhật từ Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang, giá lúa bình ổn. Cụ thể, lúa OM 380 (tươi) dao động 5.300 – 5.500 đồng/kg; OM 18 và Đài Thơm 8 ở mức 6.800 – 7.000 đồng/kg; IR 50404 giữ mức 5.300 – 5.500 đồng/kg; OM 5451 dao động từ 6.000 – 6.200 đồng/kg; Nàng Hoa 9 giữ vững trong biên độ 6.550 – 7.000 đồng/kg.
![]() |
Bảng giá lúa hôm nay 21/5/2025 |
Tại thị trường xuất khẩu
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), tính đến ngày 21/5, giá gạo 5% tấm xuất khẩu của Việt Nam duy trì mức 397 USD/tấn, tiếp tục chuỗi ngày ổn định. Dù thấp hơn mức 404 USD/tấn của Thái Lan, song giá gạo Việt vẫn cao hơn đáng kể so với gạo cùng loại của Ấn Độ và Pakistan (382 – 387 USD/tấn), thể hiện sự cạnh tranh tốt về chất lượng và thương hiệu.
Tại thị trường Trung Quốc – một trong những khách hàng lớn của gạo Việt – nhu cầu nhập khẩu tăng vọt trong tháng 3 với 240.000 tấn, tăng 130.000 tấn so với tháng trước. Trong đó, Việt Nam dẫn đầu nguồn cung với 94.900 tấn, chiếm gần 40%. Các nước đứng sau gồm Thái Lan (47.900 tấn), Myanmar (43.600 tấn), Ấn Độ (32.300 tấn), Campuchia (12.700 tấn), và Pakistan (2.300 tấn).
Cơ cấu nhập khẩu của Trung Quốc cho thấy ưu tiên lớn cho gạo đánh bóng (76%), tiếp theo là gạo tấm (24%) và gạo lứt (0,01%).
Hiện nay, thị trường gạo nội địa Trung Quốc đang trong giai đoạn tiêu thụ thấp điểm. Dù hoạt động đấu giá lúa theo giá thu mua tối thiểu vẫn diễn ra, tỷ lệ giao dịch duy trì ở mức rất thấp.
Lúa vụ cũ đang có sự phân hóa rõ nét giữa các khu vực: một số vùng gần như đã cạn kiệt nguồn cung, trong khi các đầu mối trung gian vẫn còn hàng tồn kho, dẫn tới tình trạng giữ giá cao. Tuy nhiên, do nhu cầu yếu, tốc độ thu mua chậm chạp, kể cả trong giai đoạn dự trữ cho Tết Đoan Ngọ.
Trong khi đó, lúa vụ mới tại Trung Quốc đang trong giai đoạn gieo mạ và sinh trưởng. Các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm đến diễn biến thời tiết. Một số khu vực ghi nhận hạn hán cục bộ (như Quảng Tây), trong khi vùng trồng lúa Japonica như Cát Lâm lại xuất hiện tình trạng ngập úng nhẹ. Dù chưa ảnh hưởng tới chất lượng lúa, nhưng tiến độ gieo trồng của nông dân đang đối mặt với không ít thách thức.