Xuất khẩu dệt may tăng 9%, nhưng mục tiêu 48 tỷ USD đầy thách thức Đẩy mạnh phát triển thị trường trong nước cho ngành dệt may, da giày |
Thời trang toàn cầu trước thách thức rác thải và tiêu dùng nhanh
Theo báo cáo cập nhật của Công ty Chứng khoán ACB (ACBS), trong 9 tháng năm 2025, xuất khẩu dệt may đạt 34,7 tỷ USD, tăng 7,7% so với cùng kỳ. Nếu đà tăng trưởng được duy trì, cả năm có thể đạt 47 tỷ USD, tương đương mức tăng 14,1%. Con số này cho thấy dù đối mặt nhiều rào cản, ngành dệt may Việt Nam vẫn đang tăng tốc nhờ nỗ lực đổi mới công nghệ và định hướng xanh hóa.
Thông tin tại tọa đàm “Dệt may bền vững - Tái chế và chuỗi cung ứng xanh trong bối cảnh thương mại toàn cầu” do Hiệp hội Dệt May Thời trang TP. Hồ Chí Minh (AGTEK) tổ chức ngày 15/10, ông Võ Thành Phước, Giám đốc phát triển Công ty Cổ phần Kết nối Thời trang (Faslink), cảnh báo: “Chúng ta đang sản xuất nhanh hơn bao giờ hết, nhưng cũng đang vứt bỏ nhanh hơn bao giờ hết.”
Theo ông Võ Thành Phước, năm 2024, lượng quần áo bị thải ra toàn cầu có thể đạt 120 triệu tấn, tăng gần 30% so với năm trước, nhưng chưa đến 1% được tái chế thành sản phẩm mới. Phần lớn rác dệt may bị đốt bỏ hoặc chôn lấp, tạo ra khí thải nhà kính và vi nhựa lan rộng trong môi trường.
![]() |
Dệt may Việt Nam trong “vòng xoáy xanh” của thương mại toàn cầu |
Không chỉ ô nhiễm, “cơn khát tiêu dùng vô độ” còn khiến thế giới tồn kho 2,5 – 5 tỷ sản phẩm, trị giá khoảng 70 – 140 tỷ USD. Trung bình mỗi người thải bỏ hơn 16 kg quần áo mỗi năm, tương đương 60 chiếc áo bị vứt đi.
Ông Võ Thành Phước cho rằng mô hình sản xuất tuyến tính “sản xuất – tiêu dùng – thải bỏ” đã lỗi thời. “Ngành thời trang phải chuyển sang mô hình tuần hoàn, nơi sản phẩm được thiết kế để tái sử dụng, tái chế và khép kín vòng đời vật liệu. Chỉ khi khép lại vòng tròn ấy, thời trang mới có thể tự tái sinh,” ông Võ Thành Phước nhấn mạnh.
Thực tế, nhiều doanh nghiệp Việt đã đầu tư nhà máy xanh, sợi tái sinh, sử dụng năng lượng mặt trời và hệ thống nước tuần hoàn, minh chứng cho nỗ lực hiện thực hóa mục tiêu kinh tế tuần hoàn.
Tái cấu trúc chuỗi cung ứng là hướng đi để bứt phá xuất khẩu xanh
Nếu xét từ góc độ doanh nghiệp, câu chuyện xanh hóa gắn liền với bài toán rác thải và công nghệ, thì ở góc độ pháp lý, xu hướng này đang chịu tác động mạnh mẽ từ các khung chính sách quốc tế.
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hà, Phó Trưởng khoa Luật, Trường Đại học Ngoại thương, nhận định: “Thế giới đang bước vào chu kỳ tái định hình thương mại mới, nơi chuyển đổi xanh, an ninh kinh tế và trí tuệ nhân tạo (AI) trở thành ba trụ cột chiến lược của thời đại.”
Theo PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hà, phát triển bền vững không còn là khẩu hiệu mà đã trở thành điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp tồn tại. “Nếu trước đây các quốc gia và doanh nghiệp cạnh tranh bằng chi phí và năng suất, thì nay họ cạnh tranh bằng tính bền vững và trách nhiệm xã hội,” ông Nguyễn Ngọc Hà nói.
Điển hình là Chỉ thị Thẩm định tính bền vững của doanh nghiệp (CSDDD) được Liên minh châu Âu ban hành từ tháng 6/2024 được xem như “hàng rào xanh” mới, yêu cầu doanh nghiệp hoạt động hoặc có doanh thu tại châu Âu phải đánh giá, truy xuất và giảm thiểu tác động đến môi trường và nhân quyền trong toàn chuỗi giá trị. Điều này buộc doanh nghiệp Việt Nam phải nâng cao năng lực quản trị, minh bạch hóa quy trình và chủ động thích ứng nếu muốn giữ chỗ đứng tại thị trường EU.
Theo TS. Phạm Thị Hồng Phượng, Cố vấn cao cấp Trung tâm Đổi mới Sáng tạo, Trường Đại học Công nghiệp TP. Hồ Chí Minh, quá trình xanh hóa chỉ khả thi khi có sự hợp lực giữa chính sách, tài chính và doanh nghiệp. Bà Phạm Thị Hồng Phượng phân tích: chi phí đầu tư công nghệ xanh ban đầu cao và thiếu hụt nhân lực chuyên môn là hai rào cản lớn nhất. “Phần lớn doanh nghiệp dệt may Việt Nam mới dừng ở mức ‘xanh hóa sản xuất’, trong khi thế giới đã tiến tới chuỗi cung ứng tuần hoàn,” bà Phượng nhận định.
Để tháo gỡ, bà Phạm Thị Hồng Phượng đề xuất Nhà nước hoàn thiện khung pháp lý, ban hành ưu đãi thuế rõ ràng và mở rộng nguồn tín dụng xanh thông qua Ngân hàng Nhà nước, WB, ADB hoặc các quỹ khí hậu quốc tế, giúp doanh nghiệp tiếp cận vốn ưu đãi để đầu tư công nghệ tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải.
Ngoài ra, theo báo cáo ACBS, các hiệp định thương mại tự do (FTA) đang là đòn bẩy quan trọng cho tiến trình chuyển đổi xanh. Hiện Việt Nam có 16 FTA có hiệu lực, và dự kiến ký thêm 6 hiệp định mới trước năm 2027, trong đó nhiều hiệp định thế hệ mới yêu cầu tiêu chuẩn xanh, minh bạch và truy xuất nguồn gốc.
Ở chiều ngược lại, doanh nghiệp cần gắn chiến lược chuyển đổi xanh với cam kết Net Zero 2050 của Việt Nam, đồng thời tăng cường hợp tác công – tư (PPP) để chia sẻ nguồn lực. “Xanh hóa không thể là nỗ lực đơn lẻ. Đó phải là chiến lược hợp lực, nơi chính sách, tài chính, công nghệ và con người cùng hướng đến một mục tiêu chung phát triển bền vững cho toàn ngành,” bà Phạm Thị Hồng Phượng nhấn mạnh.