Việt Nam sẽ yêu cầu bắt buộc báo cáo phát thải khí nhà kính với đối tượng nào?
Nghị định 06/2022 quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn đã đề xuất danh mục cơ sở phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính dự kiến là các cơ sở có mức phát thải khí nhà kính hằng năm từ 3.000 tấn CO2 tương đương trở lên hoặc thuộc các đối tượng có tổng tiêu thụ nhiên liệu hằng năm từ 1.000 TOE trở lên.
Cụ thể sẽ bao gồm các đối tượng sau: Các nhà máy nhiệt điện, cơ sở sản xuất công nghiệp có tổng lượng tiêu thụ năng lượng hằng năm từ 1.000 tấn dầu tương đương (TOE) trở lên; Các công ty kinh doanh vận tải hàng hoá có tổng tiêu thụ nhiên liệu hằng năm từ 1.000 TOE trở lên; Các tòa nhà thương mại có tổng tiêu thụ năng lượng hằng năm từ 1.000 TOE trở lên; Cơ sở xử lý chất thải rắn có công suất hoạt động hằng năm từ 65.000 tấn trở lên”.
Tại Quyết định 01/2022/QĐ-CP yêu cầu khách hàng/đơn vị cung cấp lượng phát thải trực tiếp và phát thải gián tiếp và các nguồn phát thải khác. Báo cáo kiểm kê lượng khí thải phải đảm bảo tin cậy, đầy đủ và cân bằng về lượng khí thải, không được có sai sót lớn, phát thải phải được đo đạc theo quy định, quy tắc.
Ngoài ra, Báo cáo Kiểm kê khí nhà kính (KNK) phải cung cấp báo cáo rõ ràng để các cơ quan có thẩm quyền và thẩm định viên biết lượng phát thải trong kỳ báo cáo và cách tổng hợp các dữ liệu phát thải này. Báo cáo xây dựng theo các mẫu báo cáo tiêu chuẩn (GRI, GHG Protocol).
Chính phủ Việt Nam đã và sẽ tiếp tục được Tập đoàn tư vấn hàng đầu NIRAS A/S (công ty tư vấn hàng đầu của Đan Mạch, thành lập năm 1956, có 2.100 nhân viên trên toàn thế giới) tư vấn về cách quản lý và vận hành ở các mảng Năng lượng (sản xuất năng lượng sạch, tiết kiệm và hiệu quả năng lượng, quản lý lưới điện, sản xuất điện từ chất thải…) và Giảm nhẹ Biến đổi khí hậu (giảm phát thải khí nhà kính, kiểm kê phát thải khí nhà kính, xây dựng chiến lược và kế hoạch giảm nhẹ cấp quốc gia, địa phương và cấp doanh nghiệp).
Hiện nay, giảm phát thải khí nhà kính đã trở thành một yêu cầu bắt buộc đối với doanh nghiêp (DN) trên toàn cầu và tại Việt Nam không nằm ngoài xu hướng chung ấy, để giảm thiểu tác hại tiêu cực lên môi trường và hướng tới phát triển bền vững.
Ngoài ra, tại mỗi quốc gia, mỗi thị trường còn có thể áp dụng những quy định khác nhau về vấn đề này nhằm đáp ứng yêu cầu, mục tiêu giảm phát thải của quốc gia đó, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiếp cận thị trường, sản xuất, kinh doanh, phân phối, tiêu thụ và xử lý sản phẩm sau tiêu dùng của DN.
Vì vậy, thực tế này đòi hỏi các DN cần chủ động tìm hiểu, cập nhật thông tin về các quy định, nguy cơ và giải pháp liên quan đến giảm phát thải khí nhà kính tác động trực tiếp và gián tiếp tới DN. Cùng với đó, DN Việt Nam cần trang bị các kiến thức phù hợp, có hệ thống để xác định định hướng, xây dựng tầm nhìn chiến lược tổng thể, dài hạn về giải pháp giảm phát thải đáp ứng theo các yêu cầu của thị trường và duy trì tăng trưởng.
Tại báo cáo của RCEE-NIRAS cho biết, EU đã đặt mục tiêu tham vọng trở thành lục địa trung hòa khí hậu vào năm 2050 và đang tiến hành kế hoạch để đạt được mục tiêu tham vọng này.
Các doanh nghiệp EU đang tìm cách chuyển hoạt động sản xuất thâm dụng carbon ra nước ngoài để tranh thủ các tiêu chuẩn còn lỏng lẻo (“rò rỉ carbon”).
Với cơ chế CBAM, EU kỳ vọng sẽ ngăn chặn được nguy cơ rò rỉ carbon thông qua cân bằng giá carbon giữa sản phẩm nội địa và nhập khẩu.
CBAM sẽ áp giá carbon cho hàng nhập khẩu dựa trên cường độ phát thải KNK của quy trình sản xuất.
Cơ chế này có thể ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu của một số nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
CBAM sẽ được áp dụng đầu tiên với các ngành điện, sắt thép, phân bón, nhôm và xi măng. Tuy nhiên, EU có thể mở rộng phạm vi này.
Các đơn vị nhập khẩu tại EU sẽ mua chứng chỉ carbon tương ứng với giá carbon phải trả nếu hàng hóa được sản xuất theo quy tắc định giá carbon của EU.
CBAM sẽ xem xét lượng phát thải KNK (Các loại khí nhà kính có thể phát sinh trong lĩnh vực chất thải bao gồm: CO2, CH4 và N2O) thuộc Phạm vi 1 và 2 liên quan đến quá trình sản xuất hàng hóa do nhà sản xuất trực tiếp kiểm soát. Ngoài ra, EU đang cân nhắc áp dụng Phạm vi 3 (phát thải hạ nguồn).
Thành lập cơ quan quản lý CBAM cấp EU duy nhất - Ủy ban Môi trường, Sức khỏe cộng đồng và An toàn thực phẩm (ENVI) của Nghị viện Châu Âu (EP).
Các chính sách định giá carbon rõ ràng (ví dụ, thuế carbon hoặc ETS) có thể miễn trừ CBAM cho hàng nhập khẩu từ quốc gia ngoài EU. Giai đoạn chuyển tiếp được tính ngày 01/01/2023 đến ngày 31/12/2024.
Mỹ Dung
Cùng chuyên mục
Kinh tế biển Việt Nam - Tầm quan trọng và tiềm năng phát triển
Gỡ khó cho doanh nghiệp xuất khẩu
Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng: Năm 2024 sẽ tập trung phát triển kinh tế số
Tích cực hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu gạo hoàn thành mục tiêu chiến lược
Kinh tế Bình Dương tăng trưởng tích cực và phục hồi mạnh mẽ
-
Chuyên gia ‘hiến kế’ để phiên đấu thầu vàng thành công
-
TS. Trần Xuân Lượng: Hành vi người mua nhà đã thay đổi theo phân khúc căn hộ chung cư
-
Hoàn thiện thể chế để mở đường cho doanh nghiệp vượt khó, phát triển
-
Tập trung vào giá trị cốt lõi, doanh nghiệp Việt có thể nâng tầm thương hiệu
-
TS. Lê Xuân Nghĩa: Cần xây dựng gói tín dụng hỗ trợ mới cho nhà ở xã hội bài bản hơn