Chúng ta đang trong quá trình phục hồi kinh tế trở lại. Ở một số quốc gia , tỷ lệ nhiễm COVID-19 đã giảm đáng kể, trong khi ở những quốc gia khác, vi rút vẫn trở nên khó kiểm soát. Nhưng cho dù các chính phủ đang tích cực quản lý từng đợt bùng phát hay quay trở lại trạng thái bình thường, thì sự phục hồi kinh tế vẫn là trọng tâm trong chương trình nghị sự hướng tới tương lai của họ. Vì nếu không có sự mở rộng kinh tế trên diện rộng, rất khó để giải quyết những thách thức lâu dài khác, chẳng hạn như giáo dục và y tế.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế gần đây đã nâng dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2021 lên 6%, tăng từ 5,5% và dự báo tăng trưởng 4,4% vào năm 2022. Triển vọng được nâng cấp dựa trên mức độ tiếp tục kiểm soát đại dịch, hiệu quả của chính sách tài khóa trong việc giảm thiểu thiệt hại kinh tế và các điều kiện tài chính toàn cầu. Và thực tế là doanh nghiệp chính là động cơ của nền kinh tế, chính vì vậy các chính phủ nhiều nước đang tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi để giúp doanh nghiệp phát triển.
Tại Việt Nam, sau đợt bùng phát dịch lần thứ 4 diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt là ở khu vực phía Nam, nền kinh tế đã bộc lộ những điểm yếu và hạn chế rất lớn. Nhưng có thể nhận thấy rằng tình thế khó khăn này là do yếu tố mang tính đột biến gây ra. Chắc chắn nền kinh tế sẽ vượt qua được điểm ngoặt này sau một thời gian không quá dài. Mặc dù vậy, vẫn nên lưu ý đến khả năng kéo dài của nó vì sức khỏe của nền kinh tế, của các doanh nghiệp đã và đang bị suy yếu. Nền kinh tế khó có thể trỗi dậy ngay và nhanh được, điều này đòi hỏi phải cần đến một quá trình phục hồi dần dần và vững chắc. Nền kinh tế Việt Nam hiện vẫn duy trì được những cơ sở phục hồi mạnh đáng tin cậy, vấn đề được đặt ra lúc này là phải biết khơi dậy chúng và tạo sức cộng hưởng.
Nhìn nhận lại những mất mát do đại dịch
Theo Tổng cục Thống kê, tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý 3 ước giảm 6,17% so với cùng kỳ năm trước, là mức giảm sâu nhất kể từ khi Việt Nam tính và công bố GDP quý (từ năm 2000).
9 tháng đầu năm, dịch Covid-19 gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới mọi lĩnh vực của nền kinh tế, làm nhiều địa phương - trọng điểm kinh tế của cả nước phải thực hiện giãn cách xã hội kéo dài, sự suy giảm tăng trưởng là điều không thể tránh khỏi. Trong tình thế 2 năm vật lộn với đại dịch, lại thêm cú “sốc” biến thể Delta ảnh hưởng rất lớn đến chuỗi cung ứng nguyên vật liệu, hàng hóa, lao động. Đây chính là nguyên nhân khiến nhiều khâu trong chuỗi vận hành chung bị gián đoạn và chậm kết nối trở lại, nhiều ngành cố gắng nhưng hồi phục chậm.
Những mất mát do dịch Covid-19 để lại là không hề nhỏ, cả về con người lẫn nền kinh tế. Tuy vậy, nếu chỉ nhìn dưới góc độ tiêu cực, chúng ta sẽ không nhận diện được cơ hội cũng như không có động lực để vượt khó vươn lên.
Chẳng hạn, một thực tế đáng buồn là năm 2021, trên 10.000 doanh nghiệp phải rời bỏ thị trường mỗi tháng và lần đầu tiên số doanh nghiệp rời thị trường nhiều hơn số doanh nghiệp thành lập mới. Với góc nhìn bi quan, rõ ràng nền kinh tế đang mất dần những tế bào quan trọng, vốn được coi là trung tâm của sự phát triển. Tuy nhiên, dưới quan điểm chọn lọc, đào thải trong nền kinh tế thị trường, những doanh nghiệp phải rời đi là những doanh nghiệp không đủ mạnh, không đủ lực. Còn những doanh nghiệp còn trụ lại sẽ là những doanh nghiệp có tiềm lực lớn, có sức chống chịu cao và có khả năng thích ứng tốt trước mọi hoàn cảnh.
Nhận định về những thách thức của Việt Nam trong thời gian qua, PGS.TS.Trần Đình Thiên – nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho biết: “Những điểm yếu chí tử của nền kinh tế thị trường vốn tồn tại trong các mạch lưu thông nguồn lực của nó như hàng hóa, lao động, tiền và vốn... đã bộc lộ rõ và được nhận diện. Giờ đây, vấn đề là đổi mới cơ chế, chính sách để nền kinh tế vượt qua các điểm nghẽn đó sớm và hiệu quả nhất có thể. Chính phủ đang tư duy và định hướng chính sách theo cách này. Đó chính là dấu hiệu cho một xu thế tích cực sẽ đến, sau một bước lùi mang tính cảnh báo mạnh mẽ đúng nghĩa vừa qua”.
“Sự vật lộn của cả hệ thống chính trị, với vai trò chủ công của Chính phủ, khi đồng hành cùng doanh nghiệp chống chịu với Covid-19 trong suốt quãng thời gian khó khăn đặc biệt vừa qua mang lại những kết quả ngày càng tích cực rõ nét. Nhưng chúng ta cũng phải mổ xẻ, nhìn nhận cho hết khó khăn và những điểm có vấn đề để có giải pháp phù hợp. Nhận diện rõ khó khăn không phải để tiêu cực, gây mất lòng tin mà để tìm ra những chính sách phù hợp nhất”. ông Thiên nhận định.
Khi đại dịch Covid-19 bất chợt xảy đến, nhiều doanh nghiệp phải cắt giảm, ngừng sản xuất, thậm chí là phá sản. Những khó khăn về lực lượng lao động trong bối cảnh dịch bệnh đã tạo ra khoảng trống lớn cho doanh nghiệp khi bắt tay vào hồi phục. Doanh nghiệp đã gặp phải khó khăn trong việc tuyển dụng, duy trì lực lượng lao động, song đây cũng chính là cơ hội để tái cấu trúc, chắt lọc lại lực lượng lao động theo hướng tinh gọn, hiệu quả hơn, cùng với đó đề ra các chính sách đào tạo mới để đáp ứng với thời kỳ mới.
Ngoài ra, khi những khó khăn do đại dịch gây ra khiến nhiều doanh nghiệp phải rời bỏ thị trường, thì lúc này những doanh nghiệp còn trụ lại trên thị trường sẽ có thêm cơ hội tiếp cận đơn hàng và thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài. Đây là cơ sở và là cơ hội rất tốt cho doanh nghiệp mở rộng quy mô nếu biết nắm bắt tình thế.
Vượt qua khủng hoảng Covid-19 để vươn lên
Hiện nay, nhờ cách chống dịch đúng đắn mà kết quả chống dịch ngày càng khả quan mà đã tạo lòng tin vững chắc hơn cho người dân và tạo niềm hy vọng về một triển vọng tươi sáng trong hồi phục kinh tế. Chính phủ đang khởi động lại quá trình mở cửa nền kinh tế một cách tích cực nhưng đủ thận trọng. Những yếu tố đó góp phần tạo niềm tin, củng cố động cơ để doanh nghiệp tích cực phục hồi mạnh hơn. Theo ông Thiên nhận định, có 3 yếu tố để “bơm máu” trực tiếp nhằm khôi phục nền kinh tế Việt Nam.
Thứ nhất, điểm tựa tăng trưởng đang được Chính phủ tích cực phát huy, đó chính là khu vực đầu tư nước ngoài - khu vực vẫn duy trì được sức tăng trưởng khá tốt trong bối cảnh dịch bệnh. Lâu nay, liên kết và lan tỏa phát triển giữa khu vực nước ngoài và trong nước rất yếu. Bối cảnh hiện nay cần được xem là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thuận lợi hơn với doanh nghiệp nước ngoài, tham gia chuỗi cung ứng của họ và nương sức của chuỗi để tiến lên.
Thứ hai là đẩy mạnh hơn nữa đầu tư công. Xu hướng này đang tích cực lên, song còn xa mới trở thành một động lực phục hồi kinh tế mạnh mẽ và hiệu quả như nó có thể. Chắc chắn, đây là kênh “tiếp máu” cho cơ thể kinh tế đang suy yếu một cách nhanh chóng và hiệu quả bậc nhất. Tuy nhiên, do bị rối trong hàng trăm, hàng ngàn thủ tục, quy trình của cơ chế “xin - cho”, không thể một sớm, một chiều mà gỡ ngay được mớ bòng bong đó. Chính phủ đã nhận diện rõ vấn đề này và đã xác định đây là nhiệm vụ ưu tiên. Thủ tướng lập ra tổ công tác đặc biệt thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công. Đây là một giải pháp quyết liệt, đúng tinh thần đột phá. Việc đẩy mạnh nỗ lực này không chỉ là cơ hội thúc đẩy đầu tư công giúp phục hồi kinh tế sớm mà quan trọng hơn, còn giúp phát hiện tính bất hợp lý của cơ chế và toàn bộ quy trình đầu tư công rắc rối, phức tạp hiện nay, trên cơ sở đó, tìm cách cải cách, đổi mới thực chất nó nhanh nhất và ít tổn thất nhất.
Cuối cùng chính là nỗ lực trong việc tháo gỡ nhanh, thủ tục tốt cho doanh nghiệp cũng tạo ra sức mạnh to lớn, chứ không chỉ là việc bơm vốn.
Ngoài 3 yếu tố “bơm máu” trực tiếp để phục hồi nền kinh tế như trên, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính đều đang quyết tâm cao, với tinh thần hỗ trợ doanh nghiệp tốt nhất. Chưa bao giờ khu vực tư nhân lại nhận được sự đồng thuận ủng hộ mạnh mẽ như hiện nay. Niềm tin của doanh nghiệp đặt vào các giải pháp của Chính phủ, của hệ thống ngân hàng vẫn tiếp tục được nâng cao khi tới đây, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước sẽ đưa ra những giải pháp mới, có thể còn mạnh mẽ hơn.
Ngoài những hỗ trợ từ phía Chính phủ hay hệ thống ngân hàng, thì ý thức và nỗ lực phục hồi của doanh nghiệp cũng rất quan trọng. Chính ý thức này giúp doanh nghiệp chủ động và tích cực nhận diện được điểm yếu, làm rõ được tình thế nó đang đối mặt và triển vọng đang chờ đợi phía trước. Đây chính là cơ sở để xác định đúng yêu cầu, tìm kiếm và lựa chọn đúng hệ giải pháp ưu tiên để sử dụng và phát huy tốt nhất nguồn lực phục hồi đang khan hiếm hiện nay.
Tình thế bất thường phải có giải pháp khác thường
Sức lực của các doanh nghiệp hiện đã suy yếu hơn nhiều so với cách đây 1 năm. Để vực chúng dậy, rõ ràng cần sự hỗ trợ mạnh hơn gấp bội và phải thật nhanh chóng để bảo đảm tính kịp thời. Sự hỗ trợ đó cũng cần tính đến một quãng thời gian phục hồi thích đáng sau dịch thì các doanh nghiệp mới có thể trở lại trạng thái bình thường.
Theo ông Thiên, để các doanh nghiệp có thể đứng thẳng dậy được và “xốc tới” chứ không phải “lom khom hồi phục”, các giải pháp hỗ trợ của Chính phủ và ngân hàng cần mạnh hơn nữa. “Đây là lúc cần nhất ngân sách nhà nước mạnh dạn chi hỗ trợ doanh nghiệp, để cứu nền kinh tế, thực chất cũng là cứu mình. Nếu không, nền kinh tế vẫn sẽ khó phục hồi, có thể lại bỏ mất thời cơ”, ông Thiên đánh giá.
Liên quan đến tiền tệ, đến khả năng tiếp cận vốn mới của doanh nghiệp, có cơ sở lý thuyết và kinh nghiệm để cho rằng từ thời điểm này, đây sẽ là yếu tố quyết định đến quá trình phục hồi nền kinh tế. Lúc này dòng tiền ở nhiều doanh nghiệp đã cạn kiệt, điều kiện vay vốn ngân hàng của họ sẽ kém hơn và rất khó để có thể đáp ứng các tiêu chuẩn vay của ngân hàng trong khi nhu cầu vốn mới để phục hồi sản xuất kinh doanh lại trở nên cấp thiết hơn.
Trong tình thế kinh tế khó khăn, các ngân hàng rất khó chấp nhận rủi ro để cho các doanh nghiệp này vay vốn. Nguy cơ doanh nghiệp không gượng dậy được vì thiếu vốn đồng nghĩa với sự phục hồi chậm và nhiều rủi ro của nền kinh tế.
Nhận định về vấn đề này, ông Thiên cho rằng: “Bây giờ là lúc chúng ta cần có cách tiếp cận mạnh dạn và can đảm để giải quyết vấn đề tiếp cận vốn mới của doanh nghiệp. Cần thành lập sớm Quỹ bảo lãnh tín dụng từ phía nhà nước, tức là nhà nước bảo lãnh cho doanh nghiệp vay ngân hàng khi họ thiếu điều kiện được vay. Đây là biện pháp cứu nền kinh tế, và đương nhiên là phải chấp nhận rủi ro. Rủi ro đến mức nào thì phải tính toán, có tiêu chuẩn rõ ràng, căn cứ vào chính khả năng phục hồi của doanh nghiệp nhờ khoản vay đó, với sự bảo đảm của các quy định luật pháp phù hợp. Tình thế bất thường phải có giải pháp khác thường, phải biết 'lấy độc trị độc' thì nền kinh tế mới 'giải độc' được”.
Ngoài ra, theo ông Thiên cũng cần phải tích cực mở cửa nền kinh tế vì hiện nay chúng ta đã kiểm soát được tình hình dịch bệnh, do đó không nên lo sợ quá mức. Chúng ta thận trọng nhưng cũng cần tích cực.
“Thời điểm hiện nay rất cần lãnh đạo các địa phương đối thoại, họp bàn với các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp để tìm ra vấn đề, các giải pháp thiết yếu không chỉ cho sự phát triển của địa phương mà còn cho cả đất nước. Chính phủ cũng cần tận dụng các nguồn này để đưa ra chính sách gần với thực tiễn”, ông Thiên đề xuất.
Doanh nghiệp là động lực giúp nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. Vì vậy, việc hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là trong bối cảnh hậu dịch Cocid-19 hiện nay là nhiệm vụ cần thiết và cấp bách. Để nhận diện và nắm bắt được thời cơ từ trong và sau dịch Covid-19, doanh nghệp cần sự hỗ trợ từ phía nhà nước trong việc định hướng cũng như tạo điều kiện để có môi trường kinh doanh thuận lợi; tiếp tục được hỗ trợ về thuế, phí... Sự hỗ trợ từ phía nhà nước cần thiết song không có nghĩa doanh nghiêp trông chờ tuyệt đối, mất đi sự chủ động của mình. Chỉ khi 2 phía cùng chủ động, nỗ lực, nền kinh tế mới có nhiều động lực để hồi phục sớm. Bởi tương lai nền kinh tế chính là nhờ vào năng lực vực dậy của doanh nghiệp.
Bảo Bảo