Thứ sáu 07/11/2025 13:04
Hotline: 024.355.63.010
Thời cuộc

Thị trường lao động Việt Nam trước tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư

12/10/2020 00:00
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, thị trường lao động việt nam thời gian qua tiếp tục được phát triển theo hướng hiện đại hóa và định hướng thị trường; khuôn khổ luật pháp, thể chế, chính sách thị trường lao động từng bước được hoàn thiện...

Thị trường lao động của Việt Nam thời gian qua bao gồm việc chuyển dịch theo hướng tốt hơn, số người làm công ăn lương, có quan hệ lao động tăng dần.

Những điểm sáng nổi bật của thị trường lao động của Việt Nam thời gian qua bao gồm việc chuyển dịch theo hướng tốt hơn, số người làm công ăn lương, có quan hệ lao động tăng dần. Hiện số lao động trong lĩnh vực nông nghiệp còn khoảng 40% lao động xã hội, cơ bản đạt mục tiêu đề ra là giảm lao động nông nghiệp xuống dưới 40% trong giai đoạn 2015-2020. Tỉ lệ người trong độ tuổi lao động tham gia lực lượng lao động vẫn duy trì ở mức cao, khoảng 76%. Tỉ lệ lao động có việc làm phi chính thức ngoài hộ nông, lâm nghiệp, thủy sản là 57,1%; năng suất lao động theo giá hiện hành ước tính đạt 84,5 triệu đồng/ lao động (tương đương khoảng 3.853 USD/lao động).

Năm 2017, cả nước đã tạo việc làm cho gần 1,6 triệu người. Tỉ lệ thất nghiệp của Việt Nam cũng ở mức thấp so với khu vực, trong đó, tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị giảm xuống chỉ còn 3,19%. Chất lượng việc làm, thu nhập của người lao động đều đặn được tăng lên, mức độ phân biệt giữa việc trả công cho lao động nam và nữ cũng đã thu hẹp. Số lao động làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cũng tiếp tục tăng. Năm 2017, cả nước đã đưa hơn 130.000 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, vừa mang về cho ngân sách quốc gia nguồn lực tài chính, vừa tích lũy được kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng làm việc. Theo dự báo, từ nay đến năm 2025, lực lượng lao động Việt Nam tăng 1,28%/năm. Lực lượng lao động xã hội sẽ tăng từ gần 55 triệu người năm 2017 lên 62 triệu người vào năm 2025.

Tuy vậy, tại thị trường lao động Việt Nam mấy năm qua, số người thất nghiệp có trình độ cao đẳng, đại học trở lên, vẫn rất cao. Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, hiện có khoảng hơn 200.000 người có trình độ từ đại học trở lên và khoảng 80.000 người có trình độ cao đẳng đang trong tình trạng tìm kiếm việc làm, hoặc không có việc làm. Nhiều sinh viên khi ra trường có việc làm, nhưng lại làm trái ngành, nghề được đào tạo. Tình trạng doanh nghiệp tìm cách sa thải ao động từ 35, 40 tuổi vì nhiều lý do đã xuất hiện thời gian qua và có xu hướng chưa chấm dứt. Đa số lao động bị sa thải hoặc mất việc đều muốn nhận bảo hiểm thất nghiệp một lần, chưa quan tâm đến việc học nghề, tìm kiếm cơ hội việc làm khác, để có thể quay lại thị trường lao động. Nếu những hạn chế, bất cập nêu trên không sớm được khắc phục thì thị trường lao động Việt Nam trong bối cảnh CMCN 4.0 có nguy cơ đổ vỡ với quy mô lớn.

Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, CMCN 4.0 tạo ra nguy cơ mất lao động hàng loạt song sẽ mang tới nhiều ngành nghề mới, cơ hội mới. "Lạc quan nhìn lại các cuộc cách mạng trong quá khứ, bao giờ cũng có những lao động, ngành nghề mất đi, nhưng cũng sẽ sản sinh ra lao động, ngành nghề mới", Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam phát biểu tại sự kiện Đối thoại chính sách cao cấp về phát triển nguồn nhân lực trong kỷ nguyên số, trong khuôn khổ Hội nghị các quan chức cao cấp APEC lần thứ 2 (SOM 2) ở Hà Nội. Phó Thủ tướng cho rằng, cuộc CMCN 4.0 và kỷ nguyên số, không chỉ giúp tăng năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế mà còn mở ra một chân trời kết nối giữa con người với con người.

Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, CMCN 4.0 tạo ra nguy cơ mất lao động hàng loạt song sẽ mang tới nhiều ngành nghề mới, cơ hội mới

Trong CMCN 4.0, những yếu tố mà từ trước đến giờ, chúng ta tự coi là có ưu thế như lực lượng lao động thủ công trẻ, dồi dào, giá rẻ, sẽ không còn là thế mạnh nữa, thậm chí bị đe dọa nghiêm trọng. Với sự bùng nổ ứng dụng Internet, công nghệ số, thiết bị thông minh, robot, vào sản xuất như hiện nay, đang đặt ra nhiều thách thức cho nguồn nhân lực Việt Nam. Vì vậy, trong tương lai gần, Việt Nam cũng có thể sẽ phải chịu sức ép về vấn đề giải quyết việc làm và phải đối mặt với sự gia tăng tỷ lệ thất nghiệp hoặc thiếu việc làm vì quy mô dân số lớn, nhưng chất lượng nguồn nhân lực nhìn chung còn thấp và chưa thích ứng với yêu cầu của cuộc CMCN 4.0. 46 triệu lao động Việt Nam chưa qua đào tạo sẽ đứng trước nguy cơ không có cơ hội tham gia làm những công việc có mức thu nhập cao, bị thay thế bởi robot, trang thiết bị công nghệ thông minh… Trong tương lai, người dân có thể mất việc làm bởi những lĩnh vực mà công nghệ robot có thể tác động tới bao trùm từ dệt may, dịch vụ, giải trí cho đến y tế, giao thông, giáo dục...

Tác động đến nguồn lực chất lượng cao, đặc biệt là các kỹ sư công nghiệp, và các robot thực hiện công việc nhiều hơn, sẽ bị phá hoại nếu các kỹ sư không điều khiển được chúng. Do đó, các kỹ sư công nghiệp phải tìm hiểu sâu thế giới của công nghệ thông tin và truyền thông để đối phó với các hệ thống phức tạp. Như vậy, với CMCN 4.0 không phải biến các kỹ sư thành các nhà khoa học dữ liệu chuyên nghiệp hoặc các chuyên gia, mà thay vào đó, trang bị cho họ kiến thức và kỹ năng trong những lĩnh vực tương ứng để giúp ọ làm việc được trong điều kiện mới. Ví dụ, cung cấp cho họ những kỹ năng mô phỏng mô hình nhà máy ảo, truyền thông dữ liệu và mạng tự động hóa hệ thống, các giao diện người - máy nhân tạo, kỹ thuật chuyển đổi kỹ thuật số - vật lý, chẳng hạn như in ba chiều, hệ thống quản lý và kiểm soát chất lượng quá trình sản xuất sản phẩm và quy trình sản xuất tích hợp, hệ thống tối ưu hóa hàng tồn kho và hậu cần.

Đồng thời, với các quá trình này, người lao động sẽ phải đối mặt với tình trạng thất nghiệp và bất bình đẳng gia tăng. Những lao động có tay nghề thấp hơn, đặc biệt là lao động trong các gia đình, lao động văn phòng và hành chính, sản xuất có thể bị rơi vào vòng luẩn quẩn, nơi đại bộ phận người lao động có kỹ năng thấp, có nghĩa họ có thể phải đối mặt với sa thải. Để tránh bị sa thải, thế hệ người lao động trong tương lai phải hiểu và phải được trang bị kỹ thuật số thành thạo và suốt đời. Như vậy, tương ứng với yêu cầu của CMCN 4.0, người lao động phải nâng cao năng lực học tập, thuần phục các kỹ năng giải quyết vấn đề, trực giác, sáng tạo và thuyết phục, các kỹ năng tự tổ chức, quản lý, kĩ năng làm việc nhóm, hoặc kỹ năng giao tiếp cũng phải được đào tạo. Đây là yêu cầu tiên quyết, không trì hoãn nếu không muốn tụt hậu tiếp. Các rào cản còn đến từ sự thiếu hiểu biết và hạn chế nguồn lực và áp lực lợi nhuận ngắn hạn và thiếu sự liên kết giữa các chiến lược về nguồn nhân lực và chiến lược đổi mới của các doanh nghiệp.

CMCN 4.0 sẽ đặt ra yêu cầu nghiêm ngặt là thị trường lao động phải có sự thay đổi căn bản về cơ cấu lao động, cơ cấu các nguồn lực để hỗ trợ thị trường, cơ cấu về trình độ lao động. Người lao động phải có sự thích ứng cao hơn để đáp ứng những công việc mới và tránh bị đào thải. Đặc biệt là lĩnh vực công nghệ thông tin, điện tử, tự động hóa, nông nghiệp công nghệ cao, chăm sóc sức khỏe... Đây là những cách thức mở ra cơ hội việc làm cho thanh niên ở cả trong nước và quốc tế. Ngoài ra, CMCN 4.0 cũng ảnh hưởng đến lĩnh vực đào tạo và đào tạo lại. Với CMCN 4.0, chúng ta buộc phải thay đổi phương thức đào tạo truyền thống để sang phương thức đào tạo linh hoạt, hiệu quả, chú trọng đào tạo các kỹ năng, chú trọng đào tạo lại, đào tạo ngắn hạn và đáp ứng yêu cầu của văn hóa học tập suốt đời.

Box: Doanh nghiệp và nhà trường cần chủ động kết nối. Việc hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp là yếu tố tiên quyết tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao cho CMCN 4.0. Kết nối cung - cầu giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo nhân lực là rất quan trọng. Điều này giúp cho các nhà trường hiểu và nắm bắt được nhu cầu của các doanh nghiệp về kỹ thuật, công nghệ và đặc biệt là yêu cầu về kiến thức, kỹ năng của các ứng viên, dự tuyển vào doanh nghiệp, từ đó giúp các trường xây dựng chương trình đào tạo phù hợp. Ngược lại, doanh nghiệp sẽ có nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng ngay được đòi hỏi của công việc

Quang Thọ

Tin bài khác
CPI 10 tháng tăng 3,27%, lạm phát cơ bản được kiểm soát

CPI 10 tháng tăng 3,27%, lạm phát cơ bản được kiểm soát

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 10 tháng năm 2025 tăng 3,27%, lạm phát cơ bản 3,20%. Giá thực phẩm, giáo dục tăng nhẹ nhưng lạm phát vẫn trong tầm kiểm soát.
10 tháng năm 2025: Xuất nhập khẩu vượt mốc 762 tỷ USD, FDI cao nhất 5 năm qua

10 tháng năm 2025: Xuất nhập khẩu vượt mốc 762 tỷ USD, FDI cao nhất 5 năm qua

10 tháng năm 2025, xuất nhập khẩu tăng trưởng ấn tượng, vượt mốc 762 tỷ USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ước đạt 21,3 tỷ USD, cao nhất của 10 tháng trong 5 năm qua.
Hoàn thiện khung pháp lý cho mô hình đô thị công nghệ cao

Hoàn thiện khung pháp lý cho mô hình đô thị công nghệ cao

Chiều 6/11, tại phiên thảo luận Tổ 15 (gồm Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Phú Thọ và Đắk Lắk) về dự án Luật Công nghệ cao (sửa đổi), nhiều đại biểu cho rằng cần sớm hoàn thiện khung pháp lý cho mô hình “đô thị công nghệ cao”, nhằm bảo đảm tính khả thi, thống nhất và tránh tình trạng áp dụng tùy tiện trong quy hoạch, chính sách.
Vốn FDI vào Việt Nam đạt mức cao nhất trong 5 năm

Vốn FDI vào Việt Nam đạt mức cao nhất trong 5 năm

Theo Cục Thống kê, vốn FDI thực hiện trong 10 tháng đầu năm ước đạt 21,3 tỷ USD, tăng 8,8 % – là mức cao nhất trong cùng kỳ 5 năm qua.
Quốc hội bàn giải pháp tháo gỡ “điểm nghẽn” trong thi hành Luật Đất đai

Quốc hội bàn giải pháp tháo gỡ “điểm nghẽn” trong thi hành Luật Đất đai

Tại Phiên họp thứ 51 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XV dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn và điều hành của các Phó Chủ tịch Quốc hội, nội dung trọng tâm là cho ý kiến về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội quy định một số cơ chế, chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thi hành Luật Đất đai.
Hải Phòng mở rộng hợp tác chiến lược với Thụy Điển trong chuyển đổi số và năng lượng sạch

Hải Phòng mở rộng hợp tác chiến lược với Thụy Điển trong chuyển đổi số và năng lượng sạch

Chuyến thăm và làm việc của Đoàn Bộ Năng lượng, Kinh doanh và Công nghiệp Thụy Điển do Thứ trưởng Sara Modig dẫn đầu tại Hải Phòng đánh dấu bước tiến mới trong quan hệ hợp tác giữa thành phố cảng và Vương quốc Thụy Điển, hướng tới phát triển bền vững, chuyển đổi xanh và đổi mới sáng tạo.
5 trụ cột cho một chiến lược bền vững

5 trụ cột cho một chiến lược bền vững

Để kinh tế tư nhân thực sự trở thành động lực tăng trưởng chủ lực, cần triển khai đồng bộ 5 đột phá chiến lược: Hoàn thiện thể chế tín dụng công bằng; Số hóa và liên thông dữ liệu tài chính; Phát triển thị trường vốn dài hạn; Thu hút vốn đầu tư quốc tế minh bạch; Nâng cao năng lực con người. Khi những trụ cột này được thiết lập vững chắc, dòng vốn sẽ lưu thông thông suốt, năng lực quản trị được nâng lên và sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam sẽ bước sang một trang mới.
Hà Nội phê duyệt Đề án hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2026 – 2030 - động lực mới cho kinh tế Thủ đô

Hà Nội phê duyệt Đề án hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2026 – 2030 - động lực mới cho kinh tế Thủ đô

UBND TP Hà Nội vừa phê duyệt Đề án “Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) trên địa bàn thành phố giai đoạn 2026 – 2030”, với mục tiêu thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, mở rộng xuất khẩu và hướng tới tăng trưởng bền vững, đồng thời cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính và phát triển hệ sinh thái doanh nghiệp.
Biển chẳng bao giờ lặng sóng – Hải Phòng mãi vươn xa

Biển chẳng bao giờ lặng sóng – Hải Phòng mãi vươn xa

Có những khoảnh khắc không chỉ khắc sâu trong lịch sử mà còn trở thành dấu mốc định hình tương lai, Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Hải Phòng lần thứ I là khoảnh khắc như thế — nơi hội tụ trí tuệ, bản lĩnh và ý chí của cả một thời kỳ mới.
Sửa Luật Quản lý nợ công: Rút ngắn thủ tục, mở rộng quyền tiếp cận vốn cho doanh nghiệp

Sửa Luật Quản lý nợ công: Rút ngắn thủ tục, mở rộng quyền tiếp cận vốn cho doanh nghiệp

Dự án Luật Quản lý nợ công sửa đổi nhiều nội dung liên quan để đẩy mạnh phân cấp, phần quyền gắn kiểm tra giám sát trong quản lý nợ công.
Sửa đổi Luật Quản lý nợ công: Củng cố niềm tin nhà đầu tư

Sửa đổi Luật Quản lý nợ công: Củng cố niềm tin nhà đầu tư

Sáng 3/11, tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XV, cho ý kiến về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý nợ công, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh yêu cầu rà soát kỹ lưỡng, đảm bảo vừa tạo thuận lợi trong công tác quản lý nợ, vừa củng cố nền tảng tài chính quốc gia và tăng niềm tin của nhà đầu tư đối với môi trường kinh tế Việt Nam.
Doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo ở Hải Phòng được miễn thuế 5 năm – cú hích lớn cho hệ sinh thái đổi mới

Doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo ở Hải Phòng được miễn thuế 5 năm – cú hích lớn cho hệ sinh thái đổi mới

Hội đồng nhân dân thành phố Hải Phòng khóa XVI vừa thông qua tại Kỳ họp thứ 30 và Chủ tịch HĐND thành phố Lê Văn Hiệu đã ký ban hành Nghị quyết quy định tiêu chí, điều kiện, trình tự, thủ tục ưu đãi thuế đối với các hoạt động khởi nghiệp sáng tạo, đổi mới sáng tạo, vi mạch bán dẫn và trí tuệ nhân tạo theo quy định tại Nghị quyết số 226/2025/QH15 của Quốc hội.
Nếu Mỹ - Trung Quốc đạt được thoả thuận thì doanh nghiệp Việt Nam được hưởng lợi gì?

Nếu Mỹ - Trung Quốc đạt được thoả thuận thì doanh nghiệp Việt Nam được hưởng lợi gì?

Giữa lúc cả thế giới dõi theo từng bước dịch chuyển trong mối quan hệ Mỹ – Trung, tín hiệu về một thỏa thuận chiến lược giảm căng thẳng giữa hai siêu cường quốc đang thắp lên hy vọng mới cho kinh tế toàn cầu. Nhưng với Việt Nam – quốc gia nằm giữa hai trung tâm sản xuất và tiêu dùng lớn nhất hành tinh, câu hỏi lớn hơn là: liệu “cái bắt tay” ấy sẽ mang cơ hội hay tạo sức ép mới cho doanh nghiệp Việt Nam sắp tới đây?
Hợp lực vươn xa: Hải Phòng khơi dòng kết nối giữa FDI và doanh nghiệp nội địa

Hợp lực vươn xa: Hải Phòng khơi dòng kết nối giữa FDI và doanh nghiệp nội địa

Ban Quản lý Khu kinh tế Hải Phòng vừa tổ chức Hội nghị kết nối doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp phụ trợ trong nước năm 2025, nhằm mở rộng chuỗi cung ứng nội địa, tăng cường hợp tác đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh cho cộng đồng doanh nghiệp thành phố.
Chính phủ thông qua nội dung dự án Luật Thương mại điện tử

Chính phủ thông qua nội dung dự án Luật Thương mại điện tử

Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết số 352/NQ-CP, thống nhất thông qua nội dung dự án Luật Thương mại điện tử (TMĐT) – văn bản pháp lý được kỳ vọng sẽ tạo hành lang minh bạch, đồng bộ và hiện đại cho nền kinh tế số đang phát triển mạnh mẽ của Việt Nam.