Theo Nghị định 53/2020/NĐ-CP, nước thải chịu phí gồm:
Nước thải công nghiệp từ 14 nhóm ngành sản xuất, chế biến cụ thể.
Nước thải sinh hoạt từ hộ gia đình, cá nhân, cơ quan, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang và một số loại hình dịch vụ.
Cách quy định này bộc lộ hạn chế khi triển khai. Một số cơ sở sản xuất, chế biến nhưng không có tên trong danh mục đã cho rằng không thuộc đối tượng chịu phí, dẫn tới tình trạng không kê khai, nộp phí, gây khó cho quản lý nhà nước.
Danh mục 14 nhóm ngành cũng chưa bao quát thực tế xả thải. Việt Nam hiện có khoảng 1.570 ngành nghề sản xuất, kinh doanh được phép hoạt động, trong đó nhiều cơ sở nhỏ lẻ, hoạt động theo mùa vụ như chăn nuôi, giết mổ gia súc gia cầm, nuôi trồng thủy sản, làm bún, nấu rượu... Việc áp dụng thu phí với nhóm này bị đánh giá là chưa phù hợp vì quy mô nhỏ, khó kiểm soát, lại thường nằm ở địa bàn kinh tế – xã hội khó khăn.
Một số ngành nghề dù thuộc diện chịu phí nhưng thực tế không phát sinh nước thải công nghiệp, chỉ có nước thải sinh hoạt từ hoạt động của công nhân hoặc nhân viên (ví dụ: may mặc, sản xuất văn phòng phẩm, điện gió, điện mặt trời...). Việc thu phí trong những trường hợp này thiếu cơ sở thực tiễn.
![]() |
Sửa quy định về phí bảo vệ môi trường: Bỏ danh mục ngành nghề chịu phí nước thải |
Để khắc phục vướng mắc, dự thảo Nghị định mới không còn liệt kê danh mục ngành nghề cụ thể. Thay vào đó, đối tượng chịu phí được xác định theo pháp luật chuyên ngành:
Nước thải công nghiệp: phát sinh từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; từ khu/cụm công nghiệp hoặc khu sản xuất – kinh doanh tập trung.
Nước thải sinh hoạt: phát sinh từ hoạt động sinh hoạt của con người hoặc từ các loại hình kinh doanh, dịch vụ được quản lý như nước thải sinh hoạt.
Cách tiếp cận này được kỳ vọng sẽ bao quát đầy đủ chủ thể xả thải, tránh bỏ sót đối tượng, đồng thời hạn chế áp dụng cứng nhắc, chồng chéo với thuế bảo vệ môi trường.
Dự thảo cũng nâng số trường hợp miễn phí từ 7 lên 9, phù hợp hơn với thực tiễn quản lý và điều kiện đặc thù của từng địa phương.
Theo Bộ Tài chính, việc thu phí bảo vệ môi trường với nước thải nhằm ràng buộc trách nhiệm của tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm, tạo nguồn kinh phí xử lý, cải tạo và phục hồi môi trường. Nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền” được duy trì, đồng thời tạo động lực để doanh nghiệp cải tiến công nghệ, giảm lượng chất thải ra môi trường.
Số thu phí từ nước thải tăng đều qua các năm, từ 2.200 tỉ đồng (2022) lên 3.338 tỉ đồng (2024). Việc điều chỉnh quy định lần này không chỉ hướng tới hiệu quả thu ngân sách, mà còn nhằm bảo đảm chính sách sát thực tế, hài hòa giữa mục tiêu bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế.