Thứ sáu 31/01/2025 00:41
Hotline: 024.355.63.010
Email: banbientap.dnhn@gmail.com
Thời cuộc

Bất cập trong các quy định về phương thức tính phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp

12/10/2020 00:00
Vấn đề phí bảo vệ môi trường đối với nước thải hiện nay được điều chỉnh bởi nghị định số 154/2016/NĐ-CP. Sau một thời gian áp dụng, bên cạnh những mặt tích cực, Nghị định này đã bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là các quy định về cách tính phí cố định

Ảnh minh họa - Nguồn: Internet

Về mức phí và lưu lượng nước thải tính phí

Theo Nghị định, quy định mức phí cố định 1.500.000 đồng/năm đối với các cơ sở có lượng nước thải trung bình một năm dưới 20m3/ngày đêm được áp dụng cho tất cả các ngành nghề đang bị coi là chưa hợp lý với một số đối tượng.

Cơ sở sản xuất chế biến có tổng nước thải dưới 20m3/ ngày đêm không áp dụng mức phí biến đổi. Thực tế cho thấy một số cơ sở sản xuất trong những lĩnh vực ngành nghề đặc thù sử dụng lưu lượng nước rất ít, dưới 1m3/ngày đêm hoặc thậm chí chưa đến 10m3/tháng như cơ khí, gia công kim loại, chế tạo máy và phụ tùng, đá chẻ… hoặc có những cơ sở sản xuất gần như không sử dụng nước trong hoạt động sản xuất như may mặc mà không dệt nhuộm, thạch cao… Việc thu phí cơ sở này bị phản đối dựa trên lập luận rằng quy định thu phí cố định 1.500.000 đồng/năm đối với tất cả các ngành nghề là không công bằng, bởi không thể đánh đồng giữa cơ sở sản xuất chỉ sử dụng 1m3/ngày đêm với cơ sở sản xuất 20m3/ngày đêm. Các cơ sở sản xuất không sử dụng nước như may mặc, thạch cao… phản đối vì cho rằng không sử dụng nước cho việc sản xuất thì không phải chịu phí BVMT đối với nước thải công nghiệp. Một số cơ sở chấp nhận đóng phí nhưng yêu cầu mức hợp lí vì họ chỉ sản xuất dưới quy mô hộ gia đình nên mức phí cố định 1.500.000 đồng/năm là quá cao.

Trong trường hợp một số hộ gia đình thành lập nhiều cơ sở sản xuất (2 đến 3 cơ sở) cùng một ngành nghề và sử dụng lưu lượng nước thải rất ít (như cơ khí, may mặc,…) nhiều địa phương lúng túng giữa phương án chỉ thu phí cố định 1.500.000 đồng/năm đối với hộ gia đình/ năm hay thu phí cố định dựa trên cơ sở sản xuất của hộ gia đình. Để tránh thất thu ngân sách, nhiều địa phương chọn phương án thu dựa trên số lượng cơ sở sản xuất của hộ gia đình và bị phản đối. Để việc thu phí được thống nhất, việc quy định rõ về đối tượng chịu phí là hết sức cần thiết. Nhưng Nghị định lại không quy định rõ mức phí cố định 1.500.000đồng/năm thu theo hộ gia đình sản xuất hay thu theo số lượng cơ sở sản xuất của hộ gia đình.

Việc quy định về tính phí biến đổi cho các cơ sở sản xuất có lượng nước thải từ 20m3/ngày đêm trở lên theo Nghị định là không phù hợp với các điều kiện phát triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn này. Hiện nay, các cơ sở sản xuất ở Việt nam chủ yếu là các cơ sở sản xuất nhỏ, tải lượng nước thải không cao. Với mức 20m3/ngày đêm mới tính đến phí biến đổi sẽ dẫn đến tình trạng số lượng cơ sở sản xuất phải đóng phí biến đổi là rất thấp. Nguồn thu cho công tác BVMT từ phí nước tải công nghiệp bị giảm sút đáng kể, không đủ bù đắp chi phí cho hoạt động BVMT.

Về thông số ô nhiễm tính phí

Trong Nghị định có quy định thu phí BVMT đối với 6 chất gây ô nhiễm COD, TSS, Hg, Bp, As, và Cd… Trong thực tế, quy định trên đã tạo áp lực và khó khăn nhất định bởi điều kiện về nguồn lực và phương tiện phân tích thông số ô nhiễm của các địa phương còn nhiều hạn chế chưa đáp ứng được việc thu phí với nhiều chất gây ô nhiễm.

Việc quy định thu phí BVMT đối với 4 loại kim loại nặng cho tất cả các ngành nghề cũnglà bất hợp lý. Bởi, mỗi loại hình sản xuất công nghiệp có một đặc thù riêng, công nghệ sản xuất đa dạng nên việc phát thải gây ô nhiễm khác nhau, không phải ngành sản xuất công nghiệp nào cũng phát sinh nước thải chứa 4 kim loại nặng. Mặt khác, chi phí lấy mẫu, phân tích hàm lượng thông số ô nhiễm thậm chí cao hơn số phí thu được từ cơ sở sản xuất.

Chi phí lấy mẫu tốn kém nên nhiều địa phương chỉ tiến hành lấy mẫu phân tích thông số ô nhiễm theo xác xuất. Việc xác định thông số ô nhiễm tính phí chủ yếu dựa vào việc kê khai của cơ sở sản xuất nên nhiều cơ sở sản xuất kê khai không trung thực, dẫn đến xác định phí không chính xác. Điều này làm giảm hiệu lực và hiệu quả giảm thiểu ô nhiễm môi trường của phí BVMT. Do đó, việc xác định thông số ô nhiễm tính phí cần phải được điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam hiện nay cũng như đặc thù phát thải của ngành nghề sản xuất công nghiệp.

Từ những phân tích trên, để giải quyết các bất cập, cần sửa đổi bổ sung một số quy định trong Nghị định. Cụ thể: về phí cố định và lưu lượng nước thải tính phí cố định. Đối với mức phí cố định đối với nước thải công nghiệp hiện nay là 1.500.000 đồng, cần điều chỉnh sau mỗi chu kỳ 5 năm để phù hợp với sự biến động của môi trường và các điều kiện kinh tế, xã hội. Đối với lưu lượng nước thải để tính phí cố định, cần chia nhỏ mức lưu lượng nước thải tính phí cố định phù hợp với các mốc lưu lượng nước thải xử lí vi phạm hành chính.

Về phí biến đổi, ngoài việc tính phí cố định theo hệ số như đã nêu, thu phí biến đổi với mức xả thải từ 5m3/ngày đêm trở lên sẽ có tác dụng điều chỉnh hành vi của cơ sở sản xuất theo hướng có lợi cho môi trường, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho BVMT và đồng thời tạo sự công bằng trong việc thu phí giữa các cơ sở sản xuất. Cần điều chỉnh tăng dần mức phí biến đổi sau mỗi chu kì khoảng 5 năm. Không nên điều chỉnh mức phí theo mức lạm phát vì khó thực hiện và thường gây ảnh hưởng tiêu cực về mặt chính sách. Cách điều chỉnh hiệu quả là áp dụng hệ thống tự điều chỉnh mức phí hàng năm theo chỉ số giá tiêu dùng. Điều này sẽ hạn chế được ảnh hưởng của lạm phát đến hiệu quả của việc áp dụng phí BVMT.

Đối với trường hợp một hộ gia đình thành lập nhiều cơ sở sản xuất cùng một ngành nghề và sử dụng lưu lượng nước thải rất ít thì chỉ nên thu phí đối với hộ gia đình. Lưu lượng nước thải tính phí cố định và phí biến đổi là tổng lượng nước thải của các cơ sở sản xuất của hộ gia đình. Quy định này vừa có tính khuyến khích hộ gia đình làm kinh tế, vừa đảm bảo được sự công bằng trong việc thu phí giữa các chủ thể.

Đối với thông số ô nhiễm tính phí, qua thực tế thực hiện Nghị định số 67/2003/NĐ-CP trong 10 năm cho thấy, rất nhiều địa phương đã không thu được phí BVMT đối với các thông số kim loại nặng có trong nước thải, gây thất thu ngân sách nhà nước bởi rất nhiều nguyên nhân. Ví dụ, năng lực quan trắc thông số ô nhiễm kim loại nặng tại các địa phương còn nhiều hạn chế, chi phí phân tích cao, thậm chí chi phí phân tích kim loại nặng cao hơn so với số phí nước thải công nghiệp thu được; Hoặc quy định tính phí theo hàm lượng các thông số kim loại nặng trong nước thải áp dụng đối với mọi đối tượng không đảm bảo tính công bằng giữa các loại hình sản xuất công nghiệp, không phân loại được các nhóm ngành phát sinh nước thải tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, gây tốn kém, phức tạp cho doanh nghiệp của một số ngành sản xuất như thực phẩm, dệt may...

Từ thực tiễn thực hiện pháp luật về phí BVMT đối với nước thải công nghiệp tại Việt Nam cũng như dựa vào đặc thù xả thải của tất cả các ngành công nghiệp gây ô nhiễm lớn theo báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia năm 2009, chỉ nên áp dụng phí BVMT cho 02 chỉ tiêu ô nhiễm là COD, TSS và 01 kim loại nặng có nồng độ cao nhất trong nước thải. Vì đây là các chất gây ô nhiễm hiện diện trong nước thải của tất cả các ngành công nghiệp gây ô nhiễm lớn, việc tính phí đối với kim loại nặng cũng cần thiết vì đây là một trong những tác nhân gây ô nhiễm nặng cho môi trường. Tuy nhiên, để phù hợp với điều kiện Việt Nam, trong giai đoạn này chỉ nên tính phí đối với 01 kim loại nặng có nồng độ cao nhất.

Lê Thị Thu Hằng

Tin bài khác
Khai mở thị trường tiềm năng lớn hỗ trợ năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp

Khai mở thị trường tiềm năng lớn hỗ trợ năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp

Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên nhân dịp đầu Xuân Ất Tỵ 2025 đã chia sẻ về những câu chuyện đằng sau thành tựu xuất khẩu ấn tượng, những khó khăn mà cộng đồng doanh nghiệp đối mặt, cũng như những định hướng hỗ trợ nền kinh tế nâng cao năng lực cạnh tranh trong năm mới.
Ngành rau quả trên con đường chinh phục mục tiêu kim ngạch 8 tỷ USD

Ngành rau quả trên con đường chinh phục mục tiêu kim ngạch 8 tỷ USD

Trong năm 2025, nước ta đặt mục tiêu xuất khẩu rau quả đạt kim ngạch 8 tỷ USD, tăng gần 900 triệu USD so với con số kỷ lục 7,12 tỷ USD của năm 2024.
Gỡ khó cơ sở hạ tầng, mở đường cho năng lượng tái tạo bứt phá

Gỡ khó cơ sở hạ tầng, mở đường cho năng lượng tái tạo bứt phá

Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng năng lượng tái tạo là một bước đi quan trọng để Việt Nam đảm bảo an ninh năng lượng, giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường và đạt được mục tiêu chuyển dịch năng lượng bền vững.
Đổi mới sáng tạo nhìn từ nước Mỹ

Đổi mới sáng tạo nhìn từ nước Mỹ

Mô hình đổi mới sáng tạo của Mỹ từ lâu đã được xem là niềm tự hào của thế giới. Từ những người thợ mày mò trong gara ở Thung lũng Silicon đến các phòng thí nghiệm nghiên cứu tại các trường đại học danh tiếng, Mỹ không ngừng tạo ra các công nghệ đột phá, làm thay đổi ngành công nghiệp và biến đổi cuộc sống.
Hải quan thế giới 2025: Cam kết thực hiện nhiệm vụ vì mục tiêu hiệu quả, an ninh và thịnh vượng

Hải quan thế giới 2025: Cam kết thực hiện nhiệm vụ vì mục tiêu hiệu quả, an ninh và thịnh vượng

Chủ đề "Cơ quan Hải quan cam kết thực hiện nhiệm vụ vì mục tiêu hiệu quả, an ninh và thịnh vượng" là thông điệp nhằm thúc đẩy các cơ quan hải quan thành viên.
Giải pháp về công nghệ cho ngành năng lượng tái tạo

Giải pháp về công nghệ cho ngành năng lượng tái tạo

Những thành tựu vượt bậc về công nghệ trong CMCN 4.0, đặc biệt là trong lĩnh vực tự động hóa, trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data) và Internet vạn vật (IoT), đã trở thành chìa khóa quan trọng để giải quyết những vấn đề nan giải trong ngành năng lượng, đặc biệt là năng lượng tái tạo.
Để thương mại điện tử xuyên biên giới không còn là nỗi lo của thị trường

Để thương mại điện tử xuyên biên giới không còn là nỗi lo của thị trường

Thương mại điện tử xuyên biên giới đang mở ra những cơ hội mới cho nền kinh tế Việt Nam, đồng thời đặt ra nhiều thách thức trong công tác quản lý và kiểm soát. Trước sự phát triển nhanh chóng của loại hình giao dịch này, ngành Hải quan đang triển khai hàng loạt giải pháp nhằm bảo đảm tuân thủ pháp luật, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của thị trường.
Phú Quốc chính thức trở thành đô thị loại I - Bước chuyển mình quan trọng trong phát triển kinh tế biển

Phú Quốc chính thức trở thành đô thị loại I - Bước chuyển mình quan trọng trong phát triển kinh tế biển

Ngày 21/1, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà đã ký quyết định công nhận TP. Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, là đô thị loại I. Đây là dấu mốc quan trọng đánh dấu sự phát triển vượt bậc của Phú Quốc, hòn đảo lớn nhất Việt Nam với những tiềm năng đặc biệt về kinh tế, du lịch và an ninh quốc phòng.
Đột phá nào cho chiến lược 10 năm phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030 ?

Đột phá nào cho chiến lược 10 năm phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030 ?

Báo cáo tổng hợp chiến lược 10 năm phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030 mà Tổ biên tập kinh tế - xã hội đang chủ trì với tinh thần chủ đạo là đưa đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên mới. Chiến lược đặt trọng tâm vào 5 đột phá chiến lược.
Thủ tướng Phạm Minh Chính chỉ đạo xử lý thông tin các nhà máy xi măng thua lỗ

Thủ tướng Phạm Minh Chính chỉ đạo xử lý thông tin các nhà máy xi măng thua lỗ

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa có ý kiến chỉ đạo xử lý thông tin báo nêu về nội dung “các nhà máy xi măng thua lỗ, có nguy cơ dừng sản xuất”.
Trung tâm tài chính quốc tế Đà Nẵng:

Trung tâm tài chính quốc tế Đà Nẵng: ''Cú hích'' thúc đẩy kinh tế Việt Nam vươn mình

Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình cho biết, Trung tâm tài chính là vấn đề mới, đóng vai trò quan trọng như một "cú hích" của nền kinh tế, thúc đẩy để Việt Nam vươn mình cất cánh.
Hải Phòng đầu tư dự án khu công nghiệp hơn 8.000 tỷ đồng

Hải Phòng đầu tư dự án khu công nghiệp hơn 8.000 tỷ đồng

Vừa qua, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã ký quyết định chủ trương đầu tư dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp Tràng Duệ 3 thành phố Hải Phòng tổng mức đầu tư 8.094,4 tỷ đồng do nhà đầu tư là Công ty cổ phần Khu công nghiệp Sài Gòn - Hải Phòng làm chủ đầu tư.
Phải trình chính sách giảm thuế, phí, lệ phí trong tháng 2/2025

Phải trình chính sách giảm thuế, phí, lệ phí trong tháng 2/2025

Thủ tướng Phạm Minh Chính chỉ đạo Bộ Tài chính sớm nghiên cứu và trình cấp có thẩm quyền các chính sách giảm thuế, phí, lệ phí hỗ trợ người dân và doanh nghiệp.
Duyệt kế hoạch cung cấp điện theo 3 kịch bản điện sản xuất và nhập khẩu

Duyệt kế hoạch cung cấp điện theo 3 kịch bản điện sản xuất và nhập khẩu

Bộ Công Thương đã phê duyệt kế hoạch cung cấp điện và vận hành hệ thống điện quốc gia theo 3 kịch bản về sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu.
Phê duyệt nhiệm vụ, lâp Quy hoạch Cảng hàng không Gia Bình – Bắc Ninh

Phê duyệt nhiệm vụ, lâp Quy hoạch Cảng hàng không Gia Bình – Bắc Ninh

Quyết định phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch Cảng hàng không Gia Bình mở ra cơ hội lớn cho phát triển hạ tầng giao thông, đáp ứng nhu cầu vận chuyển hành khách, hàng hóa, góp phần thúc đẩy kinh tế Bắc Ninh.