Thứ ba 01/07/2025 15:55
Hotline: 024.355.63.010
Thời cuộc

Bất cập trong các quy định về phương thức tính phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp

12/10/2020 00:00
Vấn đề phí bảo vệ môi trường đối với nước thải hiện nay được điều chỉnh bởi nghị định số 154/2016/NĐ-CP. Sau một thời gian áp dụng, bên cạnh những mặt tích cực, Nghị định này đã bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là các quy định về cách tính phí cố định

Ảnh minh họa - Nguồn: Internet

Về mức phí và lưu lượng nước thải tính phí

Theo Nghị định, quy định mức phí cố định 1.500.000 đồng/năm đối với các cơ sở có lượng nước thải trung bình một năm dưới 20m3/ngày đêm được áp dụng cho tất cả các ngành nghề đang bị coi là chưa hợp lý với một số đối tượng.

Cơ sở sản xuất chế biến có tổng nước thải dưới 20m3/ ngày đêm không áp dụng mức phí biến đổi. Thực tế cho thấy một số cơ sở sản xuất trong những lĩnh vực ngành nghề đặc thù sử dụng lưu lượng nước rất ít, dưới 1m3/ngày đêm hoặc thậm chí chưa đến 10m3/tháng như cơ khí, gia công kim loại, chế tạo máy và phụ tùng, đá chẻ… hoặc có những cơ sở sản xuất gần như không sử dụng nước trong hoạt động sản xuất như may mặc mà không dệt nhuộm, thạch cao… Việc thu phí cơ sở này bị phản đối dựa trên lập luận rằng quy định thu phí cố định 1.500.000 đồng/năm đối với tất cả các ngành nghề là không công bằng, bởi không thể đánh đồng giữa cơ sở sản xuất chỉ sử dụng 1m3/ngày đêm với cơ sở sản xuất 20m3/ngày đêm. Các cơ sở sản xuất không sử dụng nước như may mặc, thạch cao… phản đối vì cho rằng không sử dụng nước cho việc sản xuất thì không phải chịu phí BVMT đối với nước thải công nghiệp. Một số cơ sở chấp nhận đóng phí nhưng yêu cầu mức hợp lí vì họ chỉ sản xuất dưới quy mô hộ gia đình nên mức phí cố định 1.500.000 đồng/năm là quá cao.

Trong trường hợp một số hộ gia đình thành lập nhiều cơ sở sản xuất (2 đến 3 cơ sở) cùng một ngành nghề và sử dụng lưu lượng nước thải rất ít (như cơ khí, may mặc,…) nhiều địa phương lúng túng giữa phương án chỉ thu phí cố định 1.500.000 đồng/năm đối với hộ gia đình/ năm hay thu phí cố định dựa trên cơ sở sản xuất của hộ gia đình. Để tránh thất thu ngân sách, nhiều địa phương chọn phương án thu dựa trên số lượng cơ sở sản xuất của hộ gia đình và bị phản đối. Để việc thu phí được thống nhất, việc quy định rõ về đối tượng chịu phí là hết sức cần thiết. Nhưng Nghị định lại không quy định rõ mức phí cố định 1.500.000đồng/năm thu theo hộ gia đình sản xuất hay thu theo số lượng cơ sở sản xuất của hộ gia đình.

Việc quy định về tính phí biến đổi cho các cơ sở sản xuất có lượng nước thải từ 20m3/ngày đêm trở lên theo Nghị định là không phù hợp với các điều kiện phát triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn này. Hiện nay, các cơ sở sản xuất ở Việt nam chủ yếu là các cơ sở sản xuất nhỏ, tải lượng nước thải không cao. Với mức 20m3/ngày đêm mới tính đến phí biến đổi sẽ dẫn đến tình trạng số lượng cơ sở sản xuất phải đóng phí biến đổi là rất thấp. Nguồn thu cho công tác BVMT từ phí nước tải công nghiệp bị giảm sút đáng kể, không đủ bù đắp chi phí cho hoạt động BVMT.

Về thông số ô nhiễm tính phí

Trong Nghị định có quy định thu phí BVMT đối với 6 chất gây ô nhiễm COD, TSS, Hg, Bp, As, và Cd… Trong thực tế, quy định trên đã tạo áp lực và khó khăn nhất định bởi điều kiện về nguồn lực và phương tiện phân tích thông số ô nhiễm của các địa phương còn nhiều hạn chế chưa đáp ứng được việc thu phí với nhiều chất gây ô nhiễm.

Việc quy định thu phí BVMT đối với 4 loại kim loại nặng cho tất cả các ngành nghề cũnglà bất hợp lý. Bởi, mỗi loại hình sản xuất công nghiệp có một đặc thù riêng, công nghệ sản xuất đa dạng nên việc phát thải gây ô nhiễm khác nhau, không phải ngành sản xuất công nghiệp nào cũng phát sinh nước thải chứa 4 kim loại nặng. Mặt khác, chi phí lấy mẫu, phân tích hàm lượng thông số ô nhiễm thậm chí cao hơn số phí thu được từ cơ sở sản xuất.

Chi phí lấy mẫu tốn kém nên nhiều địa phương chỉ tiến hành lấy mẫu phân tích thông số ô nhiễm theo xác xuất. Việc xác định thông số ô nhiễm tính phí chủ yếu dựa vào việc kê khai của cơ sở sản xuất nên nhiều cơ sở sản xuất kê khai không trung thực, dẫn đến xác định phí không chính xác. Điều này làm giảm hiệu lực và hiệu quả giảm thiểu ô nhiễm môi trường của phí BVMT. Do đó, việc xác định thông số ô nhiễm tính phí cần phải được điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam hiện nay cũng như đặc thù phát thải của ngành nghề sản xuất công nghiệp.

Từ những phân tích trên, để giải quyết các bất cập, cần sửa đổi bổ sung một số quy định trong Nghị định. Cụ thể: về phí cố định và lưu lượng nước thải tính phí cố định. Đối với mức phí cố định đối với nước thải công nghiệp hiện nay là 1.500.000 đồng, cần điều chỉnh sau mỗi chu kỳ 5 năm để phù hợp với sự biến động của môi trường và các điều kiện kinh tế, xã hội. Đối với lưu lượng nước thải để tính phí cố định, cần chia nhỏ mức lưu lượng nước thải tính phí cố định phù hợp với các mốc lưu lượng nước thải xử lí vi phạm hành chính.

Về phí biến đổi, ngoài việc tính phí cố định theo hệ số như đã nêu, thu phí biến đổi với mức xả thải từ 5m3/ngày đêm trở lên sẽ có tác dụng điều chỉnh hành vi của cơ sở sản xuất theo hướng có lợi cho môi trường, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho BVMT và đồng thời tạo sự công bằng trong việc thu phí giữa các cơ sở sản xuất. Cần điều chỉnh tăng dần mức phí biến đổi sau mỗi chu kì khoảng 5 năm. Không nên điều chỉnh mức phí theo mức lạm phát vì khó thực hiện và thường gây ảnh hưởng tiêu cực về mặt chính sách. Cách điều chỉnh hiệu quả là áp dụng hệ thống tự điều chỉnh mức phí hàng năm theo chỉ số giá tiêu dùng. Điều này sẽ hạn chế được ảnh hưởng của lạm phát đến hiệu quả của việc áp dụng phí BVMT.

Đối với trường hợp một hộ gia đình thành lập nhiều cơ sở sản xuất cùng một ngành nghề và sử dụng lưu lượng nước thải rất ít thì chỉ nên thu phí đối với hộ gia đình. Lưu lượng nước thải tính phí cố định và phí biến đổi là tổng lượng nước thải của các cơ sở sản xuất của hộ gia đình. Quy định này vừa có tính khuyến khích hộ gia đình làm kinh tế, vừa đảm bảo được sự công bằng trong việc thu phí giữa các chủ thể.

Đối với thông số ô nhiễm tính phí, qua thực tế thực hiện Nghị định số 67/2003/NĐ-CP trong 10 năm cho thấy, rất nhiều địa phương đã không thu được phí BVMT đối với các thông số kim loại nặng có trong nước thải, gây thất thu ngân sách nhà nước bởi rất nhiều nguyên nhân. Ví dụ, năng lực quan trắc thông số ô nhiễm kim loại nặng tại các địa phương còn nhiều hạn chế, chi phí phân tích cao, thậm chí chi phí phân tích kim loại nặng cao hơn so với số phí nước thải công nghiệp thu được; Hoặc quy định tính phí theo hàm lượng các thông số kim loại nặng trong nước thải áp dụng đối với mọi đối tượng không đảm bảo tính công bằng giữa các loại hình sản xuất công nghiệp, không phân loại được các nhóm ngành phát sinh nước thải tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, gây tốn kém, phức tạp cho doanh nghiệp của một số ngành sản xuất như thực phẩm, dệt may...

Từ thực tiễn thực hiện pháp luật về phí BVMT đối với nước thải công nghiệp tại Việt Nam cũng như dựa vào đặc thù xả thải của tất cả các ngành công nghiệp gây ô nhiễm lớn theo báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia năm 2009, chỉ nên áp dụng phí BVMT cho 02 chỉ tiêu ô nhiễm là COD, TSS và 01 kim loại nặng có nồng độ cao nhất trong nước thải. Vì đây là các chất gây ô nhiễm hiện diện trong nước thải của tất cả các ngành công nghiệp gây ô nhiễm lớn, việc tính phí đối với kim loại nặng cũng cần thiết vì đây là một trong những tác nhân gây ô nhiễm nặng cho môi trường. Tuy nhiên, để phù hợp với điều kiện Việt Nam, trong giai đoạn này chỉ nên tính phí đối với 01 kim loại nặng có nồng độ cao nhất.

Lê Thị Thu Hằng

Tin bài khác
Hộ kinh doanh có doanh thu từ 200 triệu trở lên bắt buộc sử dụng hóa đơn điện tử vào năm 2027

Hộ kinh doanh có doanh thu từ 200 triệu trở lên bắt buộc sử dụng hóa đơn điện tử vào năm 2027

Doanh thu miễn thuế cho hộ kinh doanh có thể nâng lên 400 triệu đồng. Các hộ có doanh thu từ 200 triệu đến dưới 1 tỉ đồng sẽ dùng hóa đơn điện tử năm 2027.
Điện sạch cần được bảo vệ bằng chính sách minh bạch, ổn định và nhất quán

Điện sạch cần được bảo vệ bằng chính sách minh bạch, ổn định và nhất quán

Năng lượng tái tạo, với hai trụ cột là điện mặt trời và điện gió đang là xu hướng toàn cầu không thể đảo ngược. Tại Việt Nam, đây không chỉ là giải pháp bảo đảm an ninh năng lượng và giảm phát thải khí nhà kính, mà còn là động lực thúc đẩy một nền kinh tế xanh, sạch và bền vững.
Doanh nghiệp Việt cần làm gì để ứng phó hiệu quả với các rào cản phi thuế quan ?

Doanh nghiệp Việt cần làm gì để ứng phó hiệu quả với các rào cản phi thuế quan ?

Dù hầu hết hàng hóa xuất khẩu sang thị trường ASEAN đều được hưởng ưu đãi với mức thuế quan 0%, nhiều doanh nghiệp Việt vẫn gặp khó khi xuất khẩu nông sản, thủy sản và hàng tiêu dùng do vướng rào cản phi thuế quan.
Chính thức luật hóa cơ chế sandbox để thử nghiệm mô hình, công nghệ và chính sách mới

Chính thức luật hóa cơ chế sandbox để thử nghiệm mô hình, công nghệ và chính sách mới

Sáng nay, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST), đánh dấu một bước chuyển thể chế quan trọng nhằm thúc đẩy sáng tạo, ứng dụng công nghệ và tăng cường bảo hộ kết quả nghiên cứu. Luật sẽ có hiệu lực từ ngày 1/10/2025.
“Chốt” thành lập Trung tâm Tài chính Quốc tế tại TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng

“Chốt” thành lập Trung tâm Tài chính Quốc tế tại TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng

Với đa số đại biểu tán thành, Quốc hội đã chính thức thông qua Nghị quyết về việc thành lập Trung tâm Tài chính Quốc tế tại Việt Nam, đặt tại hai thành phố trọng điểm là Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Đà Nẵng.
Gỡ "nút thắt" về rào cản phi thuế quan tạo lực đẩy cho doanh nghiệp ASEAN vươn xa

Gỡ "nút thắt" về rào cản phi thuế quan tạo lực đẩy cho doanh nghiệp ASEAN vươn xa

Gỡ rào cản phi thuế quan được đánh giá là giúp giảm chi phí giao dịch, thu hút đầu tư, tăng trưởng bền vững và mở rộng thị trường cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Xu hướng tiêu dùng mới thị trường Halal: Doanh nghiệp làm gì để thích nghi?

Xu hướng tiêu dùng mới thị trường Halal: Doanh nghiệp làm gì để thích nghi?

Mức chi tiêu và nhu cầu sử dụng các sản phẩm Halal có xu hướng ngày càng tăng, thúc đẩy tăng quy mô nền kinh tế Halal toàn cầu dự kiến đạt 3.200 tỷ USD năm 2025, với tốc độ tăng trưởng thị trường bình quân hàng năm đạt 6,2%, nhưng tại sao doanh nghiệp Việt khó tiếp cận?
Định hướng ứng phó cho doanh nghiệp Việt trước chính sách thuế quan của Hoa Kỳ

Định hướng ứng phó cho doanh nghiệp Việt trước chính sách thuế quan của Hoa Kỳ

Trước sức ép từ chính sách thuế quan mới của Hoa Kỳ, các doanh nghiệp Việt đang triển khai ba nhóm giải pháp chủ đạo nhằm giảm thiểu rủi ro và duy trì khả năng cạnh tranh dài hạn: giảm phụ thuộc thương mại, nâng cao hiệu quả hoạt động và tái định vị chiến lược thị trường.
Bộ Tài chính lên tiếng sau lùm xùm loại Sơn Hải khỏi dự án cao tốc

Bộ Tài chính lên tiếng sau lùm xùm loại Sơn Hải khỏi dự án cao tốc

Bộ Tài chính chỉ ra những bất thường trong vụ Tập đoàn Sơn Hải bị loại khỏi cao tốc TP.HCM - Chơn Thành. Nghi vấn minh bạch, hiệu quả trong đấu thầu lớn.
Trái phiếu xanh: Cơ hội vàng để Việt Nam đạt mục tiêu Net Zero

Trái phiếu xanh: Cơ hội vàng để Việt Nam đạt mục tiêu Net Zero

Thị trường trái phiếu xanh Việt Nam đang mở rộng mạnh mẽ, hướng đến mục tiêu Net Zero 2050 với nhiều thương vụ phát hành thành công và cơ hội đầu tư hấp dẫn.
Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả: Mục tiêu trong “kỷ nguyên vươn mình”

Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả: Mục tiêu trong “kỷ nguyên vươn mình”

Sáng ngày 26/6/2025, tại Hà Nội, Bộ Công Thương tổ chức Diễn đàn “Sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả: Thành quả và mục tiêu trong kỷ nguyên vươn mình”. Đây là sự kiện nhằm phổ biến thông tin về Luật Sử dụng Năng lượng tiết kiệm, hiệu quả vừa được thông qua tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá XIV.
Thứ trưởng Bộ Công Thương cảnh báo “ve sầu thoát xác” trên sàn thương mại điện tử

Thứ trưởng Bộ Công Thương cảnh báo “ve sầu thoát xác” trên sàn thương mại điện tử

Trong bối cảnh thương mại điện tử đang phát triển bùng nổ cả về quy mô giao dịch lẫn tốc độ lan tỏa, cơ quan quản lý nhà nước bắt đầu đối diện với một nguy cơ mới – hiện tượng “ve sầu thoát xác”: các gian thương sau khi bị phát hiện và xử lý vi phạm đã nhanh chóng quay trở lại thị trường dưới danh nghĩa mới, tiếp tục hành vi sai trái.
Quốc hội thông qua Luật sửa 8 luật thuộc lĩnh vực tài chính, đầu tư: Tăng phân cấp, phân quyền, giảm thủ tục đầu tư

Quốc hội thông qua Luật sửa 8 luật thuộc lĩnh vực tài chính, đầu tư: Tăng phân cấp, phân quyền, giảm thủ tục đầu tư

Quốc hội vừa thông qua Luật sửa đổi 8 luật lớn, mở rộng phân quyền, đơn giản hóa thủ tục, linh hoạt cơ chế PPP. Kỳ vọng lớn cho kinh tế bứt phá.
UBND cấp tỉnh được duyệt chủ trương sân bay, Nhà nước linh hoạt cùng PPP

UBND cấp tỉnh được duyệt chủ trương sân bay, Nhà nước linh hoạt cùng PPP

Quốc hội vừa thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 8 luật liên quan đến lĩnh vực tài chính – đầu tư, đáng chú ý là việc trao quyền cho UBND cấp tỉnh quyết định chủ trương đầu tư với nhiều nhóm dự án quy mô lớn, trong đó có cả sân bay.
Quốc hội tăng phân cấp, phân quyền cho Chính phủ, địa phương

Quốc hội tăng phân cấp, phân quyền cho Chính phủ, địa phương

Quốc hội thông qua Luật Ngân sách sửa đổi, tăng phân cấp cho Chính phủ, địa phương. Đây là bước đột phá nhằm chủ động điều hành, thúc đẩy phát triển và chống lãng phí.