Thứ tư 05/11/2025 01:13
Hotline: 024.355.63.010
Thời cuộc

Bất cập trong các quy định về phương thức tính phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp

12/10/2020 00:00
Vấn đề phí bảo vệ môi trường đối với nước thải hiện nay được điều chỉnh bởi nghị định số 154/2016/NĐ-CP. Sau một thời gian áp dụng, bên cạnh những mặt tích cực, Nghị định này đã bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là các quy định về cách tính phí cố định

Ảnh minh họa - Nguồn: Internet

Về mức phí và lưu lượng nước thải tính phí

Theo Nghị định, quy định mức phí cố định 1.500.000 đồng/năm đối với các cơ sở có lượng nước thải trung bình một năm dưới 20m3/ngày đêm được áp dụng cho tất cả các ngành nghề đang bị coi là chưa hợp lý với một số đối tượng.

Cơ sở sản xuất chế biến có tổng nước thải dưới 20m3/ ngày đêm không áp dụng mức phí biến đổi. Thực tế cho thấy một số cơ sở sản xuất trong những lĩnh vực ngành nghề đặc thù sử dụng lưu lượng nước rất ít, dưới 1m3/ngày đêm hoặc thậm chí chưa đến 10m3/tháng như cơ khí, gia công kim loại, chế tạo máy và phụ tùng, đá chẻ… hoặc có những cơ sở sản xuất gần như không sử dụng nước trong hoạt động sản xuất như may mặc mà không dệt nhuộm, thạch cao… Việc thu phí cơ sở này bị phản đối dựa trên lập luận rằng quy định thu phí cố định 1.500.000 đồng/năm đối với tất cả các ngành nghề là không công bằng, bởi không thể đánh đồng giữa cơ sở sản xuất chỉ sử dụng 1m3/ngày đêm với cơ sở sản xuất 20m3/ngày đêm. Các cơ sở sản xuất không sử dụng nước như may mặc, thạch cao… phản đối vì cho rằng không sử dụng nước cho việc sản xuất thì không phải chịu phí BVMT đối với nước thải công nghiệp. Một số cơ sở chấp nhận đóng phí nhưng yêu cầu mức hợp lí vì họ chỉ sản xuất dưới quy mô hộ gia đình nên mức phí cố định 1.500.000 đồng/năm là quá cao.

Trong trường hợp một số hộ gia đình thành lập nhiều cơ sở sản xuất (2 đến 3 cơ sở) cùng một ngành nghề và sử dụng lưu lượng nước thải rất ít (như cơ khí, may mặc,…) nhiều địa phương lúng túng giữa phương án chỉ thu phí cố định 1.500.000 đồng/năm đối với hộ gia đình/ năm hay thu phí cố định dựa trên cơ sở sản xuất của hộ gia đình. Để tránh thất thu ngân sách, nhiều địa phương chọn phương án thu dựa trên số lượng cơ sở sản xuất của hộ gia đình và bị phản đối. Để việc thu phí được thống nhất, việc quy định rõ về đối tượng chịu phí là hết sức cần thiết. Nhưng Nghị định lại không quy định rõ mức phí cố định 1.500.000đồng/năm thu theo hộ gia đình sản xuất hay thu theo số lượng cơ sở sản xuất của hộ gia đình.

Việc quy định về tính phí biến đổi cho các cơ sở sản xuất có lượng nước thải từ 20m3/ngày đêm trở lên theo Nghị định là không phù hợp với các điều kiện phát triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn này. Hiện nay, các cơ sở sản xuất ở Việt nam chủ yếu là các cơ sở sản xuất nhỏ, tải lượng nước thải không cao. Với mức 20m3/ngày đêm mới tính đến phí biến đổi sẽ dẫn đến tình trạng số lượng cơ sở sản xuất phải đóng phí biến đổi là rất thấp. Nguồn thu cho công tác BVMT từ phí nước tải công nghiệp bị giảm sút đáng kể, không đủ bù đắp chi phí cho hoạt động BVMT.

Về thông số ô nhiễm tính phí

Trong Nghị định có quy định thu phí BVMT đối với 6 chất gây ô nhiễm COD, TSS, Hg, Bp, As, và Cd… Trong thực tế, quy định trên đã tạo áp lực và khó khăn nhất định bởi điều kiện về nguồn lực và phương tiện phân tích thông số ô nhiễm của các địa phương còn nhiều hạn chế chưa đáp ứng được việc thu phí với nhiều chất gây ô nhiễm.

Việc quy định thu phí BVMT đối với 4 loại kim loại nặng cho tất cả các ngành nghề cũnglà bất hợp lý. Bởi, mỗi loại hình sản xuất công nghiệp có một đặc thù riêng, công nghệ sản xuất đa dạng nên việc phát thải gây ô nhiễm khác nhau, không phải ngành sản xuất công nghiệp nào cũng phát sinh nước thải chứa 4 kim loại nặng. Mặt khác, chi phí lấy mẫu, phân tích hàm lượng thông số ô nhiễm thậm chí cao hơn số phí thu được từ cơ sở sản xuất.

Chi phí lấy mẫu tốn kém nên nhiều địa phương chỉ tiến hành lấy mẫu phân tích thông số ô nhiễm theo xác xuất. Việc xác định thông số ô nhiễm tính phí chủ yếu dựa vào việc kê khai của cơ sở sản xuất nên nhiều cơ sở sản xuất kê khai không trung thực, dẫn đến xác định phí không chính xác. Điều này làm giảm hiệu lực và hiệu quả giảm thiểu ô nhiễm môi trường của phí BVMT. Do đó, việc xác định thông số ô nhiễm tính phí cần phải được điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam hiện nay cũng như đặc thù phát thải của ngành nghề sản xuất công nghiệp.

Từ những phân tích trên, để giải quyết các bất cập, cần sửa đổi bổ sung một số quy định trong Nghị định. Cụ thể: về phí cố định và lưu lượng nước thải tính phí cố định. Đối với mức phí cố định đối với nước thải công nghiệp hiện nay là 1.500.000 đồng, cần điều chỉnh sau mỗi chu kỳ 5 năm để phù hợp với sự biến động của môi trường và các điều kiện kinh tế, xã hội. Đối với lưu lượng nước thải để tính phí cố định, cần chia nhỏ mức lưu lượng nước thải tính phí cố định phù hợp với các mốc lưu lượng nước thải xử lí vi phạm hành chính.

Về phí biến đổi, ngoài việc tính phí cố định theo hệ số như đã nêu, thu phí biến đổi với mức xả thải từ 5m3/ngày đêm trở lên sẽ có tác dụng điều chỉnh hành vi của cơ sở sản xuất theo hướng có lợi cho môi trường, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho BVMT và đồng thời tạo sự công bằng trong việc thu phí giữa các cơ sở sản xuất. Cần điều chỉnh tăng dần mức phí biến đổi sau mỗi chu kì khoảng 5 năm. Không nên điều chỉnh mức phí theo mức lạm phát vì khó thực hiện và thường gây ảnh hưởng tiêu cực về mặt chính sách. Cách điều chỉnh hiệu quả là áp dụng hệ thống tự điều chỉnh mức phí hàng năm theo chỉ số giá tiêu dùng. Điều này sẽ hạn chế được ảnh hưởng của lạm phát đến hiệu quả của việc áp dụng phí BVMT.

Đối với trường hợp một hộ gia đình thành lập nhiều cơ sở sản xuất cùng một ngành nghề và sử dụng lưu lượng nước thải rất ít thì chỉ nên thu phí đối với hộ gia đình. Lưu lượng nước thải tính phí cố định và phí biến đổi là tổng lượng nước thải của các cơ sở sản xuất của hộ gia đình. Quy định này vừa có tính khuyến khích hộ gia đình làm kinh tế, vừa đảm bảo được sự công bằng trong việc thu phí giữa các chủ thể.

Đối với thông số ô nhiễm tính phí, qua thực tế thực hiện Nghị định số 67/2003/NĐ-CP trong 10 năm cho thấy, rất nhiều địa phương đã không thu được phí BVMT đối với các thông số kim loại nặng có trong nước thải, gây thất thu ngân sách nhà nước bởi rất nhiều nguyên nhân. Ví dụ, năng lực quan trắc thông số ô nhiễm kim loại nặng tại các địa phương còn nhiều hạn chế, chi phí phân tích cao, thậm chí chi phí phân tích kim loại nặng cao hơn so với số phí nước thải công nghiệp thu được; Hoặc quy định tính phí theo hàm lượng các thông số kim loại nặng trong nước thải áp dụng đối với mọi đối tượng không đảm bảo tính công bằng giữa các loại hình sản xuất công nghiệp, không phân loại được các nhóm ngành phát sinh nước thải tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, gây tốn kém, phức tạp cho doanh nghiệp của một số ngành sản xuất như thực phẩm, dệt may...

Từ thực tiễn thực hiện pháp luật về phí BVMT đối với nước thải công nghiệp tại Việt Nam cũng như dựa vào đặc thù xả thải của tất cả các ngành công nghiệp gây ô nhiễm lớn theo báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia năm 2009, chỉ nên áp dụng phí BVMT cho 02 chỉ tiêu ô nhiễm là COD, TSS và 01 kim loại nặng có nồng độ cao nhất trong nước thải. Vì đây là các chất gây ô nhiễm hiện diện trong nước thải của tất cả các ngành công nghiệp gây ô nhiễm lớn, việc tính phí đối với kim loại nặng cũng cần thiết vì đây là một trong những tác nhân gây ô nhiễm nặng cho môi trường. Tuy nhiên, để phù hợp với điều kiện Việt Nam, trong giai đoạn này chỉ nên tính phí đối với 01 kim loại nặng có nồng độ cao nhất.

Lê Thị Thu Hằng

Tin bài khác
Hà Nội phê duyệt Đề án hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2026 – 2030 - động lực mới cho kinh tế Thủ đô

Hà Nội phê duyệt Đề án hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2026 – 2030 - động lực mới cho kinh tế Thủ đô

UBND TP Hà Nội vừa phê duyệt Đề án “Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) trên địa bàn thành phố giai đoạn 2026 – 2030”, với mục tiêu thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, mở rộng xuất khẩu và hướng tới tăng trưởng bền vững, đồng thời cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính và phát triển hệ sinh thái doanh nghiệp.
Biển chẳng bao giờ lặng sóng – Hải Phòng mãi vươn xa

Biển chẳng bao giờ lặng sóng – Hải Phòng mãi vươn xa

Có những khoảnh khắc không chỉ khắc sâu trong lịch sử mà còn trở thành dấu mốc định hình tương lai, Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Hải Phòng lần thứ I là khoảnh khắc như thế — nơi hội tụ trí tuệ, bản lĩnh và ý chí của cả một thời kỳ mới.
Sửa Luật Quản lý nợ công: Rút ngắn thủ tục, mở rộng quyền tiếp cận vốn cho doanh nghiệp

Sửa Luật Quản lý nợ công: Rút ngắn thủ tục, mở rộng quyền tiếp cận vốn cho doanh nghiệp

Dự án Luật Quản lý nợ công sửa đổi nhiều nội dung liên quan để đẩy mạnh phân cấp, phần quyền gắn kiểm tra giám sát trong quản lý nợ công.
Sửa đổi Luật Quản lý nợ công: Củng cố niềm tin nhà đầu tư

Sửa đổi Luật Quản lý nợ công: Củng cố niềm tin nhà đầu tư

Sáng 3/11, tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XV, cho ý kiến về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý nợ công, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh yêu cầu rà soát kỹ lưỡng, đảm bảo vừa tạo thuận lợi trong công tác quản lý nợ, vừa củng cố nền tảng tài chính quốc gia và tăng niềm tin của nhà đầu tư đối với môi trường kinh tế Việt Nam.
Doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo ở Hải Phòng được miễn thuế 5 năm – cú hích lớn cho hệ sinh thái đổi mới

Doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo ở Hải Phòng được miễn thuế 5 năm – cú hích lớn cho hệ sinh thái đổi mới

Hội đồng nhân dân thành phố Hải Phòng khóa XVI vừa thông qua tại Kỳ họp thứ 30 và Chủ tịch HĐND thành phố Lê Văn Hiệu đã ký ban hành Nghị quyết quy định tiêu chí, điều kiện, trình tự, thủ tục ưu đãi thuế đối với các hoạt động khởi nghiệp sáng tạo, đổi mới sáng tạo, vi mạch bán dẫn và trí tuệ nhân tạo theo quy định tại Nghị quyết số 226/2025/QH15 của Quốc hội.
Nếu Mỹ - Trung Quốc đạt được thoả thuận thì doanh nghiệp Việt Nam được hưởng lợi gì?

Nếu Mỹ - Trung Quốc đạt được thoả thuận thì doanh nghiệp Việt Nam được hưởng lợi gì?

Giữa lúc cả thế giới dõi theo từng bước dịch chuyển trong mối quan hệ Mỹ – Trung, tín hiệu về một thỏa thuận chiến lược giảm căng thẳng giữa hai siêu cường quốc đang thắp lên hy vọng mới cho kinh tế toàn cầu. Nhưng với Việt Nam – quốc gia nằm giữa hai trung tâm sản xuất và tiêu dùng lớn nhất hành tinh, câu hỏi lớn hơn là: liệu “cái bắt tay” ấy sẽ mang cơ hội hay tạo sức ép mới cho doanh nghiệp Việt Nam sắp tới đây?
Hợp lực vươn xa: Hải Phòng khơi dòng kết nối giữa FDI và doanh nghiệp nội địa

Hợp lực vươn xa: Hải Phòng khơi dòng kết nối giữa FDI và doanh nghiệp nội địa

Ban Quản lý Khu kinh tế Hải Phòng vừa tổ chức Hội nghị kết nối doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp phụ trợ trong nước năm 2025, nhằm mở rộng chuỗi cung ứng nội địa, tăng cường hợp tác đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh cho cộng đồng doanh nghiệp thành phố.
Chính phủ thông qua nội dung dự án Luật Thương mại điện tử

Chính phủ thông qua nội dung dự án Luật Thương mại điện tử

Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết số 352/NQ-CP, thống nhất thông qua nội dung dự án Luật Thương mại điện tử (TMĐT) – văn bản pháp lý được kỳ vọng sẽ tạo hành lang minh bạch, đồng bộ và hiện đại cho nền kinh tế số đang phát triển mạnh mẽ của Việt Nam.
Siết chặt hành vi dùng AI tạo tin giả, mạo danh: Quốc hội bàn sâu Luật An ninh mạng sửa đổi

Siết chặt hành vi dùng AI tạo tin giả, mạo danh: Quốc hội bàn sâu Luật An ninh mạng sửa đổi

Ngày 31/10, trong khuôn khổ chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội nghe Bộ trưởng Bộ Công an – Đại tướng Lương Tam Quang, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, trình bày Tờ trình về Dự án Luật An ninh mạng (sửa đổi).
Phó Thủ tướng Lê Thành Long làm rõ kế hoạch thành lập sàn giao dịch vàng và quản lý thị trường bất động sản

Phó Thủ tướng Lê Thành Long làm rõ kế hoạch thành lập sàn giao dịch vàng và quản lý thị trường bất động sản

Tại phiên thảo luận ngày 30/10, Phó Thủ tướng Lê Thành Long đã thay mặt Chính phủ tham gia giải trình, làm rõ một số vấn đề được đại biểu Quốc hội và cử tri quan tâm, trong đó nổi bật là chủ trương thành lập sàn giao dịch vàng quốc gia, định hướng quản lý thị trường bất động sản.
Khánh Hòa: Quyết tâm đạt 11% GRDP trong 3 tháng cuối năm 2025

Khánh Hòa: Quyết tâm đạt 11% GRDP trong 3 tháng cuối năm 2025

Khánh Hòa đang bước vào "giai đoạn nước rút" với tham vọng là đưa tốc độ tăng trưởng Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) quý IV/2025 lên mức 11% để kéo tăng trưởng cả năm đạt 8,1%.
Chống “vàng hóa”, VAFI kiến nghị đánh thuế VAT 10% với vàng

Chống “vàng hóa”, VAFI kiến nghị đánh thuế VAT 10% với vàng

Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI) vừa có văn bản về chính sách thuế đối với kinh doanh vàng miếng và vàng trang sức. Theo đó, đơn vị này đề xuất áp thuế GTGT 10% trên hóa đơn bán vàng.
"Thợ số" không thể bị lãng quên để Việt Nam đạt được mục tiêu chiến lược

"Thợ số" không thể bị lãng quên để Việt Nam đạt được mục tiêu chiến lược

Việt Nam thiếu trầm trọng kỹ thuật viên vận hành công nghệ. Nếu không giữ chân được "thợ số", mục tiêu trung tâm AI sẽ khó thành hiện thực.
Chủ động phân cấp quản lý xuất nhập khẩu, doanh nghiệp hưởng lợi

Chủ động phân cấp quản lý xuất nhập khẩu, doanh nghiệp hưởng lợi

Thực hiện Nghị định 146/2025/NĐ-CP của Chính phủ về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại, Hà Nội đã nhanh chóng triển khai hàng loạt giải pháp cụ thể, giúp doanh nghiệp xuất nhập khẩu thuận lợi hơn, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của Thủ đô.
Đại biểu Quốc hội kiến nghị rà soát, điều chỉnh chỉ tiêu tài chính để bảo đảm mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2026

Đại biểu Quốc hội kiến nghị rà soát, điều chỉnh chỉ tiêu tài chính để bảo đảm mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2026

Đại biểu Quốc hội Trần Văn Tiến (đoàn Phú Thọ) đề nghị Chính phủ cần đánh giá lại và điều chỉnh mức tăng trưởng của một số chỉ tiêu tài chính – kinh tế vĩ mô có tác động trực tiếp đến GDP, nhằm bảo đảm tính khả thi cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2026.