Ông Hoàng Hải – Phó Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Kinh tế đối ngoại (Bộ Tài chính) - cho biết, lộ trình sửa đổi Luật được chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn đầu triển khai trong năm 2025, tập trung vào những vấn đề cấp thiết, mang tính tháo gỡ các điểm nghẽn thực tiễn. Giai đoạn hai dự kiến thực hiện vào năm 2026, nhằm sửa đổi toàn diện, tổng thể trên cơ sở đánh giá đầy đủ tình hình thực tế trong nước, tham khảo kinh nghiệm quốc tế và định hướng phát triển trong giai đoạn tới.
![]() |
Sửa Luật Quản lý nợ công, mở đường huy động vốn. Ảnh minh họa |
Trong giai đoạn đầu, Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi nhiều nội dung quan trọng, bao gồm quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của các tổ chức, cá nhân liên quan đến quản lý nợ công; kế hoạch vay, trả nợ; cơ chế vay lại vốn vay nước ngoài; vay nợ của chính quyền địa phương; và các quy định về huy động, sử dụng vốn vay của Chính phủ. Đáng chú ý, thủ tục đề xuất khoản vay cũng sẽ được điều chỉnh theo hướng tinh gọn, giảm bớt thông tin cần cung cấp so với đề xuất dự án trước đây, từ đó giúp rút ngắn thời gian xử lý và giảm chi phí tuân thủ cho các bên liên quan.
Một nội dung quan trọng khác là việc giao Chính phủ hướng dẫn cụ thể về lập, triển khai và công bố Chương trình quản lý nợ công ba năm cùng Kế hoạch vay – trả nợ hằng năm. Đây là những công cụ quản lý quan trọng nhằm đảm bảo hoạt động vay nợ và trả nợ của quốc gia được thực hiện một cách có hiệu quả, minh bạch, đúng tiến độ và phù hợp với khả năng tài chính.
Trong lĩnh vực phát hành trái phiếu Chính phủ ra quốc tế – một kênh huy động vốn tiềm năng nhưng cũng nhiều thách thức – Bộ Tài chính đề xuất giao Chính phủ hướng dẫn phương thức lựa chọn tổ chức quản lý phát hành, tổ chức tư vấn pháp lý, các đại lý liên quan, cũng như xây dựng kế hoạch tổ chức phát hành trái phiếu phù hợp với tình hình thị trường và mục tiêu chiến lược tài chính quốc gia. Đây được kỳ vọng sẽ là bước đi cần thiết nhằm đa dạng hóa nguồn vốn vay, giảm phụ thuộc vào các kênh truyền thống, đồng thời tăng tính chủ động và chuyên nghiệp trong việc tiếp cận thị trường vốn quốc tế.
Về cơ chế cho vay lại, dự thảo cũng nhấn mạnh vai trò của Chính phủ trong việc hoàn thiện cơ chế chia sẻ rủi ro giữa Bộ Tài chính và các cơ quan cho vay lại, thông qua các quy định về phí dự phòng rủi ro và tỷ lệ trích nộp dự phòng. Cách tiếp cận này không chỉ tăng tính minh bạch trong quản lý vốn vay, mà còn góp phần đảm bảo an toàn tài chính quốc gia, phân bổ hợp lý rủi ro giữa các chủ thể tham gia vào chuỗi vay – cho vay lại.
Bên cạnh đó, dự thảo cũng đề xuất giao Chính phủ quy định cụ thể về bảo đảm tiền vay đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Việc này nhằm mở rộng cơ hội tiếp cận vốn cho các đơn vị sự nghiệp có nhu cầu và tiềm năng phát triển, nhưng vẫn đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc an toàn tài chính và quản lý nợ công một cách chặt chẽ.
Để tăng cường tính minh bạch và phục vụ công tác giám sát, Chính phủ sẽ quy định chi tiết về việc công bố thông tin, số liệu liên quan đến nợ công. Việc công khai dữ liệu đầy đủ và kịp thời không chỉ phục vụ công tác quản lý nội bộ, mà còn củng cố lòng tin của người dân, nhà đầu tư và các tổ chức quốc tế đối với khả năng điều hành tài khóa và nợ công của Việt Nam.