Tên lửa, máy bay không người lái và các cuộc tấn công bằng thuyền nhỏ đã gây trở ngại lớn cho hoạt động vận chuyển container. Hiện nay, các tàu chở hàng rời, tàu chở dầu và khí tự nhiên lỏng ngày càng tránh xa khu vực này, dẫn đến giảm hơn 40% tổng lưu lượng đi lại. Người tiêu dùng phải đối mặt với sự chậm trễ và chi phí cao hơn, do tăng giá bảo hiểm và định tuyến lại chuyến tàu khắp Châu Phi.
Cuộc đình công tác động nặng nề đến các quốc gia ven biển. Ả Rập Saudi duy trì đội tàu chở dầu riêng, nhưng một số chủ hàng bên thứ ba đã rút lui. Các cảng ở Biển Đỏ phải đối mặt với rủi ro lớn khi vận chuyển hàng từ phía nam hoặc gửi hàng đến châu Á.
Yanbu, Rabigh, và Jizan, nơi tập trung ngành hóa dầu xuất khẩu, đối mặt với khó khăn. Đường ống Đông-Tây, chủ yếu để vận chuyển hàng hóa đến châu Âu, trở thành lựa chọn thay thế quan trọng khi xuất khẩu qua Vịnh gặp trở ngại. Ai Cập gặp khủng hoảng kinh tế do ngừng hoạt động vận chuyển qua Biển Đỏ và ảnh hưởng đến thu nhập từ Kênh đào Suez.
Châu Âu cố gắng giảm phụ thuộc vào khí đốt Nga bằng việc nhập khẩu LNG từ Mỹ và Qatar. QatarEnergy chuyển hướng tàu LNG đi khắp Châu Phi. Dù có khủng hoảng ngắn hạn, Châu Âu không phản ứng mạnh do có dự trữ khí đốt dồi dào. Tuy nhiên, lục địa này cần học từ khủng hoảng năm 2022 và chuẩn bị cho tình trạng khẩn cấp trong tương lai.
Chính phủ Israel đang hưởng lợi từ cảm giác đe dọa, nhưng đối mặt với khó khăn đầu tư vào ngành công nghiệp khí đốt ngoài khơi do cảm giác bất an và rủi ro. Iran, mặc dù ủng hộ người Houthis, nhưng giữ quyền ra quyết định riêng, tạo ra thách thức cho Mỹ và các đối thủ trong khu vực mà không gây chiến tranh trực tiếp.
Iran không muốn đóng cửa eo biển Hormuz hoặc vùng Vịnh do hầu hết dầu xuất khẩu đều sang Trung Quốc. Gây rắc rối ở Biển Đỏ là lựa chọn tốt hơn. Tàu chở dầu của Nga tiếp tục di chuyển về phía nam qua Biển Đỏ, đến các thị trường quan trọng như Ấn Độ và Trung Quốc, mặc dù đã có những vụ tấn công nhưng chưa gây thiệt hại. Hạn chế nguồn cung cấp khí đốt của châu Âu chưa đưa ra lợi ích chiến lược cho Moscow, nhưng có thể có ảnh hưởng trong tương lai.
Tuy nhiên, trường hợp thú vị nhất là Trung Quốc. Không phụ thuộc vào Bab Al Mandeb cho việc nhập khẩu dầu từ cảng phía Tây của Nga, Trung Quốc cũng không mua LNG. Họ mong muốn tránh mọi sự gián đoạn đối với giao thông qua vùng Vịnh, đặc biệt là trong bối cảnh quá trình bình thường hóa mối quan hệ giữa Iran và Saudi Arabia mà họ đã trung gian vào tháng 3.
Mặc dù Trung Quốc không gặp khó khăn trong việc vận chuyển container đến châu Âu, mang theo hàng xuất khẩu lớn, tuy nhiên, họ phải đối mặt với cản trở do tuyến đường dài hơn và chi phí cao hơn khi đi quanh Mũi Hảo Vọng. Điều này tăng áp lực lên mục tiêu của châu Âu và Mỹ trong việc giảm sự phụ thuộc vào hàng hóa của Trung Quốc. Các tàu Trung Quốc, mặc dù đã thông báo vị thế của họ trên đường thủy, vẫn đối mặt với nguy cơ cuộc tấn công từ phía Houthi.
Bắc Kinh đã giữ im lặng về khủng hoảng Biển Đỏ, có thể áp dụng châm ngôn của Napoléon đối với Mỹ: "Không bao giờ ngắt lời kẻ thù của bạn khi hắn đang phạm sai lầm." Mặc dù có căn cứ quân sự ở Djibouti, Trung Quốc chưa tham gia vào các hoạt động bảo vệ hàng hải.
Washington có thể nghĩ rằng Trung Quốc đang hưởng lợi từ tình hình, nhưng thực tế là Trung Quốc thậm chí không muốn đóng vai trò tích cực. Hạm đội Mỹ ở Trung Đông không chỉ là để bảo vệ lợi ích của Mỹ mà còn để tránh tình trạng khoảng trống mà đối thủ có thể lấp đầy.
Bắc Kinh hiện chưa có ý định, khả năng hoặc nhu cầu tham gia tích cực trong vấn đề an ninh của khu vực này.
Quốc Anh/ Theo Robin M Mills - CEO Qamar Energy