Bộ Tài chính vừa chính thức có Tờ trình Chính phủ dự thảo Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phí và lệ phí.
Theo Bộ Tài chính, Luật Phí và lệ phí được Quốc hội thông qua ngày 25/11/2015 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2017. Triển khai thi hành luật, Bộ Tài chính đã phối hợp các bộ, ngành xây dựng trình cấp có thẩm quyền và ban hành theo thẩm quyền 143 văn bản quy phạm pháp luật; trong đó, có Nghị định số 120/2016/NĐ-CP ngày 23/8/2016 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phí và lệ phí và 135 thông tư thuộc thẩm quyền của Bộ Tài chính.
Cụ thể, Nghị định số 120/2016 quy định về: Kê khai, thu, nộp phí, lệ phí; về nguyên tắc xác định tỷ lệ để lại tiền phí thu được; nội dung chi cho hoạt động cung cấp dịch vụ, thu phí, lệ phí; trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương trong xây dựng và đề xuất mức thu phí, lệ phí là cơ sở cho Bộ Tài chính, Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh ban hành các văn bản quy định thu phí, lệ phí theo thẩm quyền.
Bộ Tài chính đánh giá, các văn bản quy phạm pháp luật đã đảm bảo hoạt động cung cấp dịch vụ thu phí, lệ phí không gián đoạn. Việc để lại tiền phí thu đảm bảo nguồn lực cho tổ chức cung cấp dịch vụ bù đắp chi phí và thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Nghị định số 120/2016/NĐ-CP đã có phát sinh vướng mắc về cách hiểu quy định về cơ quan được khoán chi phí hoạt động từ nguồn thu phí. Cùng với đó là sự thay đổi của các văn bản pháp luật liên quan, trong đó có các quy định về in, phát hành, sử dụng, lập và cấp biên lai thu phí, lệ phí...Do đó, Bộ Tài chính cho rằng, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Nghị định 120/2016/NĐ-CP để phù hợp với tình hình thực tế.
Tại dự thảo nghị định, Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi khoản 1 Điều 3 Nghị định số 120/2016/NĐ-CP theo hướng người nộp phí, lệ phí thực hiện kê khai, nộp theo tháng, quý, năm hoặc từng lần phát sinh. Đồng thời, nộp phí, lệ phí cho cơ quan thu hoặc kho bạc nhà nước bằng tiền mặt hoặc thông qua tổ chức tín dụng, tổ chức dịch vụ và hình thức khác theo quy định. Đề xuất này là căn cứ vào chủ trương khuyến khích sử dụng dịch vụ công trực tuyến và các văn bản của Bộ Tài chính về hình thức, thời hạn thu, nộp, kê khai các khoản phí, lệ phí. Căn cứ số tiền phí, lệ phí thu được nhiều hay ít, nơi thu phí xa hay gần kho bạc nhà nước, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định định kỳ ngày, tuần hoặc tháng, tổ chức thu phí phải gửi số tiền phí đã thu được trong kỳ vào tài khoản phí chờ nộp ngân sách; gửi số tiền lệ phí đã thu được trong kỳ vào tài khoản lệ phí chờ nộp ngân sách hoặc tài khoản thu ngân sách.
Để thống nhất thực hiện phát hành, quản lý, sử dụng biên lai, Bộ Tài chính trình Chính phủ quy định tổ chức thu phí, lệ phí thực hiện lập và cấp chứng từ thu phí, lệ phí theo quy định tại Nghị định số 11/2020/NĐ-CP; Nghị định số 123/2020/NĐ-CP.
Bên cạnh đó, để quy định về cơ quan nhà nước thu phí thuộc diện khoán chi phí hoạt động được rõ ràng hơn, Bộ Tài chính trình Chính phủ sửa đổi khoản 1 Điều 4 Nghị định số 120/2016/NĐ-CP. Theo đó, phí thu từ các hoạt động dịch vụ do cơ quan nhà nước thực hiện phải nộp vào NSNN. Trường hợp cơ quan nhà nước được khoán chi phí hoạt động từ nguồn thu phí, thì được khấu trừ theo tỷ lệ xác định quy định tại Điều 5 nghị định này; phần còn lại (nếu có) nộp NSNN.
Riêng với quy định sử dụng để lại tiền phí để chi cho các hoạt động cung cấp dịch vụ, thu phí của tổ chức thu, dự thảo đề xuất 2 phương án. Phương án 1: giữ quy định hiện hành, đồng thời bổ sung “Cho phép cơ quan áp dụng cơ chế tài chính gắn với đặc thù được áp dụng cho đến khi thực hiện cải cách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW”. Phương án 2: bãi bỏ các nội dung chi liên quan đến chi tiền lương và chi đầu tư từ tiền phí để lại; chi cơ quan nhà nước áp dụng cơ chế tài chính gắn với đặc thù theo quy định riêng của Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ. Các cơ quan này sẽ sử dụng tiền phí để lại theo quy định tại Nghị định số 130/2005/NĐ-CP. Để phù hợp với chủ trương của Đảng và quy định pháp luật hiện hành, cũng như đảm bảo cho các cơ quan đang áp dụng cơ chế tài chính gắn với đặc thù không bị gián đoạn trong thực hiện nhiệm vụ, Bộ Tài chính nghiêng về phương án 1.
Bên cạnh đó, để đảm bảo tiền phí nộp kịp thời vào NSNN, hạn chế chuyển nguồn số dư phí qua nhiều năm, dự thảo đề xuất hàng năm, tổ chức thu phải quyết toán thu, chi theo quy định. Sau khi quyết toán, số tiền phí được trích lại nhưng chưa chi trong năm được chuyển sang năm sau. Sau 2 năm, số tiền phí đã được chuyển nguồn không còn nhiệm vụ chi thì phải nộp toàn bộ vào NSNN.
Trường hợp cần sửa đổi, bổ sung mức thu, nộp, miễn, giảm, quản lý và sử dụng các khoản phí, lệ phí thuộc thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, thì các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Tòa án Nhân dân Tối cao (cơ quan quản lý chuyên ngành) chủ trì, phối hợp với bộ, ngành liên quan xây dựng đề án và xin ý kiến của Bộ Tài chính trước khi trình Chính phủ, trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành.
P.V (t/h)