Nhiều doanh nghiệp "chuyển mình" qua dịch Covid-19

16:02 19/03/2021

Dịch Covid-19 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, trong thách thức, khó khăn, nhiều doanh nghiệp Việt vẫn kịp thời thích ứng nhằm hạn chế ảnh hưởng, thậm chí tận dụng những cơ hội ít ỏi để vươn lên.

Bài 1:  Ngành dệt may Việt Nam liên kết chặt chẽ để vượt qua khủng hoảng Covid-19

Ngành dệt may đã trải qua cơn “ác mộng” khi dịch COVID-19 tác động tiêu cực đến hầu hết các thị trường xuất nhập khẩu chủ lực của toàn ngành. Trong bối cảnh khó khăn đó, các doanh nghiệp ngành dệt may và da giày đã phục hồi nhanh chóng và hướng tới hình thành chuỗi cung ứng, giảm sự phụ thuộc vào nguồn nguyên vật liệu nhập khẩu.

 

Nửa đầu năm 2020, dịch Covid-19 như một “cơn bão” bất ngờ ập đến, cuốn đi lợi nhuận của các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực dệt may. Không chỉ chuỗi cung nguyên liệu đầu vào bị gián đoạn mà nhiều đơn hàng xuất khẩu bị tạm dừng, hoãn do nhu cầu tiêu dùng sụt giảm. Điều này cũng ảnh hưởng tới doanh thu và kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong ngành nhất là mục tiêu tăng trưởng của ngành.

Xuất khẩu giảm mạnh, việc chuyển dịch sang sản xuất các mặt hàng như khẩu trang, đồ bảo hộ y tế được coi là “cứu cánh” cho nhiều doanh nghiệp dệt may. Doanh thu từ mảng này không quá lớn, song đã góp phần giải quyết việc làm, trả lương cho người lao động và bù đắp một phần doanh thu. Bên cạnh đó, việc kiếm đơn hàng trong bối cảnh dịch Covid-19 bùng phát trở lại không hề dễ dàng với phần đông doanh nghiệp này.

Theo Trung tâm Nghiên cứu Quan hệ lao động cho biết, dịch Covid-19 khiến tổng cầu trên toàn thế giới đối với mặt hàng dệt may, da giày giảm mạnh. Nhu cầu ở EU giảm 27% tiêu thụ giày và 45% quần áo. Nhu cầu ở Mỹ giảm 21% tiêu thụ giày và 40% quần áo. Giá nhập khẩu giảm mạnh, đến tháng 9/2020, giá hàng may mặc vào Mỹ đã giảm khoảng 13%.

Các doanh nghiệp dệt may và giày dép Việt Nam cũng không nằm ngoài sự tác động. Trong đó, có tới 94,2% doanh nghiệp da giày, 87,1% doanh nghiệp dệt may bị giảm đơn hàng; 84,5% doanh nghiệp da giày, 53,5% doanh nghiệp dệt may bị khách hoãn hủy đơn và 74,8 doanh nghiệp da giày, 22,9% doanh nghiệp dệt may không xuất khẩu được.

Đối với lĩnh vực dệt may nói riêng, ông Trương Văn Cẩm, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Dệt may Việt Nam cho biết, quý II/2020 là thời gian ngành dệt may chịu tác động nặng nề nhất từ dịch bệnh với kim ngạch ngành dệt may giảm khoảng 23% so với cùng kỳ năm 2019. Đến quý III/2020, tình trạng này đã khởi sắc, song, cũng giảm khoảng 1,7%. Dự báo, năm 2020, kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may chỉ đạt khoảng 35,2 tỷ USD, giảm khoảng 9,3% so với cùng kỳ năm 2019. Đây là thiệt hại chưa từng có của ngành dệt may trong vòng hàng chục năm qua.

Tuy nhiên, do chiến tranh thương mại, đơn hàng đã chuyển mạnh sang Việt Nam và một số quốc gia khác. Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu may mặc lớn nhất vào Mỹ. Nhờ Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), dư địa tăng xuất khẩu vào EU còn rất lớn cho doanh nghiệp Việt Nam. Theo bà Đỗ Quỳnh Chi, xuất khẩu giày có thể tăng 50%, dệt may có thể tăng 67% vào năm 2025

Bà Đỗ Quỳnh Chi - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Quan hệ lao động cho biết, trước những tác động của dịch Covid-19, nhiều doanh nghiệp đã thay đổi chiến lược về phát triển sản phẩm và tìm khách hàng mới. Các doanh nghiệp đã bắt đầu một số điều chỉnh mang tính chiến lược trong thời gian từ 1-3 năm tới. Cùng với đó, có tới 55,7% doanh nghiệp dự định thúc đẩy tự động hóa, 49,8% sẽ phát triển sản phẩm mới, 39,9% sẽ đa dạng hơn nữa sản phẩm và 41,5% sẽ đầu tư nâng cao kỹ năng lao động.

Theo Khảo sát của Trung tâm Nghiên cứu Quan hệ lao động, dịch Covid-19 đã khiến cho các doanh nghiệp tăng mạnh nhu cầu liên kết với các doanh nghiệp khác tại Việt Nam để đảm bảo chuỗi cung ứng giảm phụ thuộc vào nguyên vật liệu nhập khẩu. Cụ thể, nhu cầu liên kết giữa các doanh nghiệp trong dịch COVID-19 gồm mua bán nguyên vật liệu trong nước để thay thế nguồn cung nhập khẩu bị gián đoạn hoặc có giá thành cao hơn; chia sẻ đơn hàng, đặc biệt giữa các công ty lớn và các công ty vừa và nhỏ; học hỏi kinh nghiệm của nhau như công nghệ, máy móc, thực hiện các tiêu chuẩn môi trường như xử lý nước thải, dùng năng lượng Mặt Trời... và các vấn đề khác.

Ở góc độ doanh nghiệp, ông Nguyễn Văn Thời - Chủ tịch Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG cũng cho rằng, khi dịch COVID-19 xảy ra, việc đứt gãy nguyên phụ liệu từ nước ngoài khiến doanh nghiệp gặp khó, buộc doanh nghiệp phải tìm kiếm nguồn cung từ các nhà cung ứng trong nước. Chính dịch COVID-19 đã kéo doanh nghiệp trong nước “lại gần” nhau hơn, kết nối tốt hơn.

Ví dụ thời gian qua, các công ty may đều nỗ lực thuyết phục nhãn hàng nước ngoài sử dụng vải và nguyên phụ liệu trong nước thay vì nhập khẩu hoàn toàn như trước đây để tận dụng được ưu đãi thuế quan qua hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA).  

 Gần đây nhất, công ty Sợi Phú Bài đã thúc đẩy việc bán sợi cho nhiều doanh nghiệp FDI trong nước trong thời gian dịch. Nhiều nhà máy may cho biết, họ đã và đang thuyết phục nhãn hàng sử dụng vải và nguyên phụ liệu trong nước thay vì nhập khẩu hoàn toàn như trước đây để tận dụng được ưu đãi thuế quan qua hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA).

Chủ tịch TNG cho biết thêm, nhu cầu thế giới có sụt giảm trong năm tới, nhưng sẽ không nhiều lắm. Quan trọng là có cạnh tranh được với các nước như Ấn Độ, Trung Quốc... hay không. “Chúng tôi hoàn toàn có đủ tự tin, về nguyên liệu, công ty đã làm với các nhãn hàng lớn, đã ký đơn hàng đến tháng 6/2021 rồi, đặt tiền mua nguyên liệu từ các nhà cung cấp. Về cơ bản, những doanh nghiệp lớn, có công nghệ, quản trị sẽ không gặp nhiều khó khăn. Năm 2021 vẫn sẽ chưa hết khó, nhưng 2022-2023 sẽ bật lên rất mạnh”.

Còn ông Nguyễn Văn Miêng - Tổng Giám đốc tổng công ty Cổ phần Dệt may Nam Định - cho biết, để bảo đảm duy trì việc làm cho người lao động, doanh nghiệp này đã có những xoay chuyển trong cơ cấu sản xuất. Trước khi có dịch Covid-19, sản lượng sản xuất sợi tại doanh nghiệp đạt 1.100 tấn, trong đó xuất khẩu chiếm 65%. “Hiện nay, xuất khẩu chỉ còn 45%. Phần còn lại tổng công ty đẩy mạnh ở thị trường nội địa”, ông Miêng cho hay.

Ngoài ra, ông Miêng còn cho biết, với mặt hàng vải, hiện sản xuất khoảng 1,2 triệu mét/ tháng nhưng có khả năng bị sụt giảm khoảng 300.000 mét/tháng vào hai quý cuối năm 2020. Chính vì vậy, doanh nghiệp này đã xoay chuyển tình thế, tận dụng và mở rộng thị trường ở phía Bắc, hướng tới dòng sản phẩm mới và tận dụng lợi thế vải sau nhuộm để bán sản phẩm đã qua hoàn tất, cung cấp cho các công ty may. Đồng thời, nâng cao liên kết chuỗi “sợi - dệt - nhuộm” để các đơn vị trong chuỗi cùng ổn định và phát triển.

Nói về những kỳ vọng của việc xoay chuyển vào thị trường nội địa, ông Miêng nhìn nhận: “Với sự xoay chuyển trên, sản xuất và tiêu thụ mặt hàng sợi, vải, nhuộm của tổng công ty cả năm dự kiến sẽ có tăng trưởng, có thể tiến rất gần đến kế hoạch đã đề ra”. 

Để thúc đẩy ngành dệt may, da giày phát triển trong thời gian tới các chuyên gia cũng cho rằng, các doanh nghiệp phải có sự thay đổi trong chiến lược kinh doanh. Trong đó, cần phát triển nguồn nguyên liệu cho ngành dệt may trong nước, để không bị phụ thuộc vào thị trường nước ngoài cũng như để nâng tầm vị thế của Việt Nam trong chuỗi cung ứng.

Theo báo cáo của Nhóm hợp tác Công – Tư Vì sự phát triển bền vững của ngành dệt may – da giày Việt Nam, ngày càng nhiều các nhãn hàng tìm tới các quốc gia như Việt Nam trong nỗ lực đa dạng hóa nguồn cung và giảm rủi ro cho chuỗi cung ứng.

Với nhiều lợi thế, ngành dệt may Việt Nam cần tập trung vào dòng sản phẩm khó, giá trị cao bên cạnh cải thiện việc nâng cao uy tín quốc tế về khía cạnh môi trường và lao động để thu hút các nhãn hàng lớn, mở rộng thị phần, chiếm lĩnh vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị.

Nhóm công tác cho rằng các doanh nghiệp lớn cần tiếp tục cải thiện việc tuân thủ tiêu chuẩn lao động và môi trường theo các cam kết hội nhập, đặc biệt là CPTPP và EVFTA. Họ cần tham gia trực tiếp nhiều hơn và sâu hơn vào chuỗi cung ứng để chủ động nguồn nguyên vật liệu, chiếm vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị. Ngoài ra, các doanh nghiệp chỉ làm gia công qua trung gian và còn yếu về việc tuân thủ tiêu chuẩn lao động và môi trường được dự báo sẽ phải dần thu hẹp sản xuất.

Với lợi thế kĩ năng lao động tốt, ngành dệt may – da giày Việt Nam có những thành công bước đầu khi tập trung vào các sản phẩm khó và giá trị cao hơn. Các doanh nghiệp cần chuyển từ gia công thuần túy sang OEM và ODM, tiến lên các bước sản xuất có giá trị gia tăng cao hơn.

Nếu các doanh nghiệp không đủ năng lực làm OEM và ODM và đảm bảo tuân thủ các yêu cầu về phát triển bền vững cả về mặt lao động và môi trường thì sẽ mất cơ hội tham gia trực tiếp vào các chuỗi cung ứng.

Tuy nhiên, Nhóm hợp tác lưu ý Chính phủ cần tiếp tục thiết kế các gói hỗ trợ khẩn cấp trong khoảng thời gian ít nhất là 12 tháng cho người lao động bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 và nhiều giải pháp hỗ trợ khác. Điều này sẽ góp phần duy trì việc làm, thu nhập và năng suất lao động và tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tái tuyển dụng lao động của doanh nghiệp khi sản xuất phục hồi.

Gia Minh