Gần 80 năm cầm bút trên “mặt trận báo chí” với nhiều chủ đề từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp đến thời kỳ đất nước đổi mới và hội nhập, nhà báo lão thành Hà Đăng viết về Đảng, về Đất nước, về Nhân dân là trách nhiệm và vinh dự của người làm báo. Nhân dịp kỷ niệm 100 năm Báo chí Cách mạng Việt Nam (1925 - 2025), ông không chỉ là một nhân chứng lịch sử mà còn là người “truyền lửa”, gửi gắm những trăn trở và kỳ vọng cho thế hệ nhà báo trẻ hôm nay.
Với độc giả vào những năm 60 của thế kỷ trước, bài báo “Ba lần đuổi kịp trung nông” của ông đã để lại tiếng vang lớn, mở đầu cho phong trào thi đua “Gió Đại Phong” nổi tiếng khi ấy. Không chỉ là một nhà báo viết về “đối nội” mà ông còn là một nhà báo “đối ngoại” xuất sắc và là nhà báo viết về đất nước trong thời bình mang đậm hơi thở thời cuộc.
Sau ba năm học ở Trường Đảng cao cấp Liên Xô, tháng 8/1964, nhà báo Hà Đăng về nước và nhận nhiệm vụ ở Báo Nhân Dân, trực tiếp là Ban miền Nam của Báo. Lúc này, Mỹ đã bắt đầu ném bom đánh phá miền Bắc, gây ra cuộc chiến tranh phá hoại ác liệt. Trưởng ban miền Nam của báo là anh Trần Kiên, ông là Phó ban, được phân công phụ trách mảng quân sự và chính trị của miền Nam. Đây cũng là thời kỳ ông viết sung sức nhất. Cứ vài ba ngày lại có tên trên mặt báo. Đó là những bài viết vạch trần bộ mặt tay sai ngoan cố của chính quyền Sài Gòn, và thế thất bại hiển nhiên của Mỹ, như “Chiến tranh ở Nam Việt Nam lan đến Hoa Thịnh Đốn”, “Tòa đại sứ, phủ toàn quyền”, “Nava dạy khôn Mỹ”, “Taylo múa gậy trên vũng lầy”, “Mùa khô đại bại và sự bối rối của Giônxơn”, “Oétmolen “đánh trận mồm” ở Mỹ...
![]() |
Ông Lê Quốc Minh - Ủy viên TƯ Đảng, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận TƯ, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam tặng hoa nhà báo Hà Đăng. |
Vào dịp Tổng tiến công Mậu Thân 1968, ông viết xã luận “Cả miền Nam đang rầm rập xốc tới với khí thế xung thiên”, hay “Toàn dân đứng lên, khắp nơi nổi dậy”. Bài “Thần thoại mới của sông Hương” biểu dương 10 nữ chiến sĩ tự vệ Huế đánh tan một tiểu đoàn địch. Bài “Quân giải phóng đã trả lời sự thách thức của Mỹ ở Làng Vây”, đăng ngày 8/2/1968, chỉ rõ rằng cái chốt Làng Vây đã bị diệt thì Khe Sanh trên phòng tuyến Mắc Namara như cá nằm trên thớt. Không ngờ, 30 năm sau (năm 1998), Bộ Chỉ huy bộ đội Tăng thiết giáp đề nghị Báo Nhân Dân cho in lại bài báo đó để đưa vào bảo tàng của binh chủng, coi như là một minh chứng về ý nghĩa lịch sử của chiến thắng Làng Vây và trận đầu ra quân thắng lợi của binh chủng.
Sau Tết Mậu Thân, tháng 5/1968, Mỹ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán với Việt Nam Dân chủ cộng hòa tại Paris. Ông được cử tham gia Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam sang Pháp dự Hội nghị Paris, nhiệm vụ được phân công là viết các bài phát biểu chuẩn bị sẵn của đồng chí Trưởng đoàn.
Những phiên họp đầu tiên, mỗi tuần một lần, tập trung vào việc nói rõ bản chất của cuộc chiến tranh và lập trường đàm phán của ta, vạch trần bộ mặt xâm lược của Mỹ và vai trò tay sai của chính quyền Sài Gòn, khẳng định Mặt trận Dân tộc giải phóng là đại diện chân chính của nhân dân miền Nam. Ông viết bài rồi các thành viên trong đoàn đóng góp ý kiến, sửa chữa bổ sung.
“Tôi nhớ, hồi đó chị Duy Liên, đoàn viên của Đoàn (sau giải phóng làm Phó Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh) bảo tôi: “Anh Đăng ơi, sao anh viết bài hiền dữ vậy? Anh phải đập cho thằng ngụy nó đau vào chứ”. Tôi hỏi lại: “Thế viết cho nó đau là thế nào?”. Chị bảo: “Đây, tôi có mấy bài báo cắt từ Hà Nội mang sang. Anh đọc để tham khảo”. Chị đưa tôi hai bài. Một là bài “Mười tội chết của bọn Thiệu, Kỳ”, hai là bài “Thằng Kỳ”. Thì ra, đó là hai bài tôi viết ở nhà. Tôi cười bảo chị: “Viết báo thế này là được còn viết văn đàm phán thì khác chứ!””, nhà báo Hà Đăng nhớ lại.
Viết bài phát biểu của đồng chí Trưởng đoàn gặp nhiều khó khăn. Bài viết phải qua nhiều lần dự thảo, nhiều cấp sửa, duyệt, rất vất vả. Một bài đàm phán mà đưa ra tập thể bàn bạc thì quả là chín người mười ý. Ông hơi bức xúc và xin gặp đồng chí Xuân Thủy đề nghị thay đổi quy trình viết. Đồng chí Xuân Thủy cười và đọc cho nghe một bài thơ vui của chính đồng chí: “Cái nghiệp văn chương vốn thế thôi / Viết đi viết lại vẫn chưa rồi / Người giao anh viết: Anh là thánh / Anh viết, người chê dở nhất đời”. Anh Xuân Thủy kể, khi đọc cho anh Trường Chinh nghe bài thơ này, anh Trường Chinh họa lại như sau: “Đấu lý bao giờ cũng thế thôi / Nói đi nói lại vẫn chưa rồi / Chiến trường ta diệt thêm nhiều địch / Đế quốc rồi đây sẽ hết đời”.
“Đàm phán Paris kéo dài gần 5 năm. Đã có 160 phiên họp, tức là có 160 bài diễn văn chuẩn bị sẵn. Tôi không nhớ mình đã viết bao nhiêu bài, nhưng chắc chắn là hơn một nửa”, nhà báo Hà Đăng chia sẻ.
Sau khi chiến tranh kết thúc và đất nước thống nhất, dấu ấn của những nhà báo Hà Đăng qua những trang viết phản ánh về công cuộc Đổi mới – cuộc chuyển mình của đất nước cũng để lại rất sâu đậm trong lòng độc giả. Ông cũng đã xuất bản cuốn sách tập hợp những bài viết thời kỳ này với tựa đề “Cái mới của đổi mới”. Mỗi bài viết của ông đều đề cập từng lĩnh vực mới với hình thức mới lạ, sinh động, văn phong hấp dẫn bạn đọc.
Chia sẻ về bí quyết để luôn có sức sáng tạo dồi dào như vậy, ông nhấn mạnh, là nhà báo, trước hết cần có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất và đạo đức tốt, nhưng về nghiệp vụ, cũng cần phải có khả năng làm việc tốt. Như Bác Hồ đã từng nói, cán bộ nói chung phải có đức có tài. Đức là gốc, nhưng tài cũng rất quan trọng. Nhà báo, có đức mà không có tài thì không thể có được tác phẩm hay.
![]() |
Nhà báo lão thành Hà Đăng - nguyên Trưởng ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương), nguyên Tổng Biên tập Báo Nhân Dân, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản, Trợ lý Tổng Bí thư . |
Cái tài của nhà báo ở đây là nắm bắt được đường lối, chủ trương chính sách, nắm bắt được tình hình, thực tế. Rồi bằng bút pháp của mình thể hiện những gì mình nắm bắt thành tác phẩm báo chí. Có những người nắm bắt được đường lối rất vững nhưng thể hiện ra rất khó khăn. Có người nắm bắt được thực tiễn nhưng trong thực tiễn ngổn ngang đó, cái gì là chính yếu nhất, nổi bật nhất cần sử dụng cho bài báo thì lại lúng túng. Kinh nghiệm của ông khi viết về đề tài đổi mới là phải suy nghĩ kỹ, chắt lọc được cái mới, tránh những gì mà các bài báo trước hay báo khác đã nói rồi.
Trên nhiều lĩnh vực và chủ đề ông đều là cây bút xuất sắc, trong đó có lĩnh vực ông viết về Đảng.
Ông tâm nguyện viết về Đảng là viết về cái gì và nên viết như thế nào? Chắc chắn những câu hỏi ấy thường xuyên nung nấu trong lòng mỗi người chúng ta. Viết về Đảng không chỉ là viết về những gì mà Đảng quan tâm trong công tác lãnh đạo của mình, mà trước hết là viết về những gì mà cán bộ, đảng viên và nhân dân quan tâm đến Đảng, tức là quan tâm đến người lãnh đạo cuộc cách mạng, bởi lẽ như Đảng ta thường nói: “Toàn bộ thành tựu và khuyết điểm của công cuộc đổi mới đều gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo và hoạt động của Đảng ta”.
Mối quan tâm của nhân dân đối với Đảng bao quát nhiều lĩnh vực, từ lịch sử ra đời cho đến hệ tư tưởng của Đảng; từ quá trình xây dựng, trưởng thành và phát triển của Đảng trong lãnh đạo cách mạng qua các thời kỳ cho đến những hoạt động thực tiễn hiện nay của Đảng, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu; từ đường lối chủ trương, chính sách và nghị quyết của Đảng cho đến phẩm chất và đạo đức của người cán bộ đảng viên trong thời kỳ mới.
“Đối với các nghị quyết của Đảng, đặc biệt là nghị quyết về xây dựng Đảng, tôi đã nghiên cứu và viết với sự say mê, không chỉ vì trách nhiệm mà cả sự phấn hưng nội tâm. Chúng ta phải thừa nhận rằng, để có những tác phẩm báo chí hay viết về Đảng, nhà báo không thể hời hợt, nông cạn, cưỡi ngựa xem hoa, phải có khả năng chọn lọc, đánh giá nghiêm túc, khoa học các vấn đề.
Và xin nói thêm một điều: Viết về các văn kiện Đảng, bao gồm cả các nghị quyết của Đảng, người làm báo tuyệt nhiên không thể dùng ngôn ngữ của văn kiện, tức là lặp lại nguyên xi các văn kiện, mà là dùng ngôn ngữ báo chí để nói về các văn kiện ấy, tức phải nhìn nghị quyết từ cuộc sống, suy ngẫm và sáng tạo nhiều”, ông nhấn mạnh.
Nhìn lại hành trình 100 năm báo chí cách mạng đã qua (1925 – 2025), với nhà báo lão thành Hà Đăng, lời dạy của Bác Hồ là bài học suốt đời làm báo: “Báo chí là một mặt trận như các mặt trận khác, và nhà báo là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Hồi kháng chiến, đất nước ta có đủ thứ mặt trận: mặt trận quân sự, mặt trận chính trị, mặt trận ngoại giao… và Bác Hồ cũng khẳng định báo chí là một mặt trận. Mà đã là chiến sĩ trên mặt trận ấy thì cây bút và trang giấy chính là vũ khí sắc bén. Vậy thì, nhà báo cách mạng không phải là viết cho hay, cho giỏi để lưu danh thiên cổ, mà để phục vụ chiến đấu, phản ánh tình hình thực tế lúc bấy giờ và cổ vũ phong trào cách mạng trong quần chúng nhân dân.
“Tôi giờ đã lớn tuổi rồi, tất nhiên là tôi mong muốn sự nghiệp báo chí sẽ tiếp tục phát triển. Mà muốn phát triển thì phải có người kế thừa: trước là lớp trung niên, rồi sau là lớp trẻ. Nhưng lớp trung niên rồi cũng sẽ đến lúc già đi, cho nên cuối cùng vẫn phải trông cậy vào lớp trẻ, lớp từ 18 - 20 tuổi trở lên, mới vào nghề”, nhà báo Hà Đăng tin tưởng.
Ông cho rằng, có người hay đánh giá thấp lớp trẻ vì cho rằng các em chưa có kinh nghiệm, còn non nớt. Nhưng ông không nghĩ vậy. Không thể đánh giá thấp lớp trẻ, vì coi thường lớp trẻ là coi thường tương lai của đất nước. Ông đã đọc nhiều bài báo do các bạn trẻ viết - có bài rất hay, rất sắc sảo, rất xứng đáng.
“Nếu mình cứ khư khư nghĩ rằng “mấy ông già mới biết viết báo, lớp trẻ thì biết gì” thì đó là sai lầm. Ngược lại, nếu lớp trẻ lại nghĩ “giới già hết thời rồi, tụi tôi mới là tương lai” thì cũng không đúng nốt. Mỗi thế hệ đều có vai trò, có điểm mạnh riêng, không nên tách rời hay so bì nhau, mà phải nối tiếp nhau, bồi đắp cho nhau. Người đi trước có kinh nghiệm, có chiều sâu. Người đi sau có nhiệt huyết, có sự sáng tạo - tiếp nối thành quả mà thế hệ đi trước để lại”, nhà báo Hà Đăng kỳ vọng.