Theo Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi, trong quá trình xây dựng đề xuất điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh, Bộ Tài chính đã tiếp thu nhiều ý kiến đóng góp từ các chuyên gia, cán bộ chuyên môn và các cơ quan liên quan. Bối cảnh chi phí sinh hoạt tăng nhanh khiến mức giảm trừ gia cảnh trở thành yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến nghĩa vụ thuế của người lao động.
Một trong những đề xuất từng được nêu là điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh theo vùng, tức áp dụng mức cao hơn đối với địa bàn có chi phí sống lớn như Hà Nội hoặc TP. Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, sau khi nghiên cứu kỹ, Bộ Tài chính đánh giá phương án này tiềm ẩn nhiều vướng mắc.
![]() |
Khó triển khai phương án giảm trừ gia cảnh theo vùng miền |
Thứ trưởng Nguyễn Đức Chi chỉ rõ, chênh lệch chi phí sinh hoạt không chỉ tồn tại giữa các tỉnh, thành phố mà còn diễn ra ngay trong cùng một địa phương. Đơn cử tại TP. Hồ Chí Minh, mức chi tiêu của người dân ở khu vực trung tâm cao hơn đáng kể so với các huyện ngoại thành. Nếu áp dụng mức giảm trừ theo vùng, sẽ phải đưa ra thêm các tiêu chí phân loại phức tạp, dễ gây bất cập, thiếu nhất quán và khó quản lý thuế theo cấp phường, xã, quận, huyện.
Từ thực tiễn trên, Bộ Tài chính đã xây dựng hai phương án điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh:
Phương án 1: Tiếp tục điều chỉnh theo chỉ số giá tiêu dùng (CPI) như hiện hành. Theo đó, mức giảm trừ cho người nộp thuế sẽ tăng 2,3 triệu đồng/tháng và cho mỗi người phụ thuộc tăng 0,9 triệu đồng/tháng.
Phương án 2: Điều chỉnh theo tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người và tốc độ tăng GDP bình quân đầu người. Mức giảm trừ cho người nộp thuế theo phương án này dự kiến tăng 4,5 triệu đồng/tháng và cho mỗi người phụ thuộc tăng 1,8 triệu đồng/tháng.
Bộ Tài chính đánh giá, cả hai phương án đều có ưu điểm và hạn chế nhất định, nhưng đa số ý kiến chuyên gia nghiêng về phương án 2 vì sát với thực tế hơn, phản ánh rõ khả năng chi trả và mức sống của người dân theo thời gian.
Hiện Bộ Tài chính đang rà soát, cập nhật số liệu về tốc độ tăng thu nhập và GDP từ năm 2020 đến nay. Trên cơ sở này, Bộ sẽ xác định mức điều chỉnh cụ thể, báo cáo Chính phủ và trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo đúng quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.