Giá lúa gạo tại Đồng bằng sông Cửu Long hôm nay biến động nhẹ, Thị trường giao dịch mua bán không nhiều, gạo xuất khẩu điều chỉnh giảm.
![]() |
| Giá lúa gạo hôm nay 19/12/2025: Giá gạo nguyên liệu và cám giảm nhẹ, gạo xuất khẩu chịu áp lực |
Giá gạo trong nước
Ghi nhận tại các địa phương hôm nay, giao dịch mua bán trầm lắng, gạo các loại chững giá. Tại An Giang, gạo về ít, giao dịch mua bán chậm, giá gạo các loại bình ổn.
Tại Lấp Vò, Sa Đéc (Đồng Tháp), lượng về ít, các kho mua chậm, lựa gạo đẹp, giá ít biến động. Tại An Cư - Đồng Tháp, giao dịch mua bán yếu, giá gạo bình ổn.
Giá gạo nguyên liệu tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục giảm nhẹ 50 – 100 đồng/kg so với ngày hôm qua, đánh dấu ghi nhận ngày sụt giảm thứ hai liên tiếp. Cụ thể, gạo nguyên liệu Đài Thơm 8 giảm thêm 100 đồng/kg, xuống còn 8.700 – 8.900 đồng/kg. Trong khi đó, giá gạo nguyên liệu IR 504 vẫn giữ ổn định trong khoảng 7.550 – 7.650 đồng/kg; gạo nguyên liệu OM 380 hiện ở mức 7.200 – 7.300 đồng/kg; gạo CL 555 dao động ở mức 7.600 – 7.800 đồng/kg; gạo OM 5451 hiện duy trì ở mức 8.150 – 8.300 đồng/kg; Sóc thơm hiện duy trì ổn định ở mức 7.500 – 7.600 đồng/kg; gạo IR 50404 duy trì ở mức 8.500 - 8.600 đồng/kg; OM 18 hiện ở mức 8.400 - 8.600 đồng/kg;…
![]() |
| Bảng giá gạo hôm nay 19/12/2025 |
Tại các chợ dân sinh, mặt hàng gạo các loại không ghi nhận điều chỉnh mới. Cụ thể, gạo Nàng Nhen hiên ở mức cao nhất 28.000 đồng/kg; gạo Hương Lài niêm yết 22.000 đồng/kg; gạo thường hiện ở mức 13.000 - 14.000 đồng/kg; gạo thơm Thái 20.000 - 22.000 đồng/kg.
Phân khúc nếp bình ổn. Cụ thể, giá nếp IR 4625 tươi ở mức 7.300 - 7.500 đồng/kg; nếp IR 4625 (khô) ở mức 9.500 - 9.700 đồng/kg; nếp 3 tháng khô dao động ở mức 9.600 - 9.700 đồng/kg.
![]() |
| Bảng giá nếp hôm nay 19/12/2025 |
Mặt hàng phụ phẩm
Mặt hàng phụ phẩm giảm nhẹ so với phiên hôm qua. Cụ thể, giá cám giảm 50 đồng/kg, dao động trong khoảng 6.550 – 6.650 đồng/kg. Trong khi giá tấm OM 5451 ổn định ở mức 7.500 – 7.600 đồng/kg.
![]() |
| Bảng giá phụ phẩm hôm nay 19/12/2025 |
Giá lúa trong nước
Ghi nhận tại nhiều địa phương hôm nay, giao dịch mua bán mới ít, giá biến động nhẹ. Tại Cà Mau, lúa ST và OM 18 giá giảm nhẹ, giao dịch mua bán không nhiều.
Tại An Giang, giao dịch mua bán mới ít, giá biến động nhẹ. Tại Đồng Tháp, giao dịch trầm lắng, thương lái hỏi mua ít, giá bình ổn. Tại Cần Thơ, Vĩnh Long, Tây Ninh, nguồn còn lại ít, vắng người mua, giá ít biến động.
Theo thông tin từ Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang, giá lúa hôm nay ổn định so với phiên hôm qua. Theo đó, giá lúa tươi OM 18 đảo chiều tăng 100 đồng/kg, dao động ở mốc 6.500 - 6.600 đồng/kg. Trong khi các loại lúa khác duy trì ổn định. Cụ thể, giá lúa OM 34 (tươi) dao động mốc 5.200 - 5.400 đồng/kg; lúa Đài Thơm 8 (tươi) 6.400 - 6.600 đồng/kg; IR 50404 (tươi) dao động quanh mức 5.200 - 5.400 đồng/kg; giá lúa OM 5451 (tươi) hiện ở mức 5.500 - 5.600 đồng/kg.
![]() |
| Bảng giá lúa hôm nay 19/12/2025 |
Tại thị trường xuất khẩu
Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo giảm nhẹ. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), giá gạo Jasmine của Việt Nam giảm 6 USD/tấn so với phiên giao dịch gần nhất, xuống còn 446 – 452 USD/tấn; gạo trắng 5% tấm cũng giảm 2 USD/tấn, về mức 360 – 364 USD/tấn. Riêng gạo thơm 5% tấm của Việt Nam vẫn được chào bán trong khoảng 435 – 460 USD/tấn.
Trong khi đó, giá gạo trắng 5% tấm của Thái Lan được chào bán ở mức 389 – 393 USD/tấn, tăng mạnh so với 365 – 369 USD/tấn trước đó và là mức cao nhất trong nhiều tháng gần đây. Tại Pakistan, giá gạo trắng 5% tấm cũng tăng 6 USD/tấn, lên 351 – 355 USD/tấn. Còn tại Ấn Độ, giá gạo trắng 5% tấm giảm nhẹ 1 USD/tấn, giao dịch trong khoảng 345 – 349 USD/tấn; trong khi giá gạo đồ 5% tấm tiếp tục đi ngang ở mức 349 – 353 USD/tấn.
Báo chí Indonexia đưa tin, Chính phủ Indonesia vừa thống nhất không nhập khẩu gạo dưới bất kỳ hình thức nào, bao gồm cả gạo phục vụ tiêu dùng và sản xuất công nghiệp, khẳng định năng lực tự chủ hoàn toàn nguồn cung lương thực trong nước.
Tuyên bố được ông Tatang Yuliono, Phó phụ trách Điều phối Thương mại và Phân phối thuộc Bộ Điều phối An ninh Lương thực Indonesia, đưa ra ngày 16/12/2025 sau cuộc họp liên bộ tại Jakarta. Theo ông, mọi nhu cầu gạo của nền kinh tế Indonesia đều có thể đáp ứng từ sản xuất nội địa.
Đáng chú ý, đề xuất nhập khẩu gần 381.000 tấn gạo cho mục đích công nghiệp năm 2026 đã bị bác bỏ, do Chính phủ đánh giá sản lượng trong nước đủ khả năng đáp ứng. Đồng thời, Indonesia cũng cấm tuyệt đối nhập khẩu gạo phục vụ tiêu dùng, áp dụng trên toàn quốc, kể cả tại các khu thương mại tự do.
Quyết định này dựa trên nền tảng dự trữ gạo đạt mức kỷ lục 3,7 triệu tấn, cao nhất kể từ khi Cơ quan Hậu cần Quốc gia (Bulog) được thành lập năm 1967, vượt xa ngưỡng an toàn thông thường khoảng 2 triệu tấn.
Theo Bộ trưởng Nông nghiệp Amran Sulaiman, lượng gạo đang lưu thông trên thị trường hoàn toàn do sản xuất trong nước. Chính phủ đã đẩy mạnh mở rộng diện tích trồng lúa, trong đó có các vùng canh tác mới tại Papua, song song với đầu tư cơ giới hóa và hệ thống kho bảo quản sau thu hoạch.
Riêng năm 2025, Indonesia đặt mục tiêu phát triển 20.000 ha lúa tại Papua, tiến tới mở rộng 100.000 ha, với tổng vốn đầu tư khoảng 3.000 tỷ rupiah. Động thái này cho thấy Indonesia đang chuyển từ chính sách nhập khẩu sang chiến lược tự chủ dài hạn, củng cố an ninh lương thực và giảm phụ thuộc vào thị trường quốc tế.