Thứ sáu 07/11/2025 13:06
Hotline: 024.355.63.010
Thời cuộc

Dự thảo “Made in VietNam”- Công cụ đấu tranh phòng chống gian lận thương mại

12/10/2020 00:00
Với Dự thảo Thông tư quy định về cách xác định sản phẩm, hàng hóa là sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam hoặc sản xuất tại Việt Nam, các doanh nghiệp chân chính sẽ không phải đối diện với nguy cơ cáo buộc “gian lận xuất xứ”, tránh được rủi ro kiện tụng

Thứ trưởng Trần Quốc Khánh

Làm rõ hơn sự cần thiết phải ban hành Thông tư, sau đó là về nội dung của Thông tư và về các tác động có thể của Thông tư đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, Thứ trưởng Trần Quốc Khánh cùng đại diện các Cục, Vụ trực thuộc Bộ trong buổi trao đổi với báo chí để giải thích và làm rõ hơn nội dung của Dự thảo Thông tư.

Dưới đây là nội dung trao đổi giữa đại diện Bộ Công Thương và các phóng viên, nhà báo về Dự thảo Thông tư quy định về cách xác định sản phẩm, hàng hóa là sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam hoặc sản xuất tại Việt Nam:

Vì sao tới bây giờ Bộ Công Thương mới đưa ra quy định về cách xác định thế nào là hàng sản xuất tại Việt Nam?

Trên thực tế, theo đúng chức năng và phạm vi quản lý nhà nước, Bộ Công Thương đã ban hành nhiều văn bản quy định như thế nào thì một sản phẩm/hàng hóa được coi là sản phẩm/hàng hóa của Việt Nam, hay nói cách khác là có xuất xứ Việt Nam.

Tuy nhiên, các quy định này chỉ áp dụng cho hàng xuất khẩu, giúp hàng hóa của ta được hưởng ưu đãi thuế khi đi vào các thị trường ngoài hoặc phục vụ các mục tiêu khác của quản lý ngoại thương.

Với hàng hóa sản xuất và sau đó lưu thông trong nước, việc ghi nước xuất xứ được thực hiện theo Nghị định số 43/2017 của Chính phủ về nhãn hàng hóa. Đây là lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Khoa học và Công nghệ, không phải của Bộ Công Thương.

Những quy định chính trong dự thảo Thông tư là gì?

Dự thảo Thông tư bao gồm một số nội dung chính như sau:

- Các điều khoản chung về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng và giải thích các thuật ngữ sử dụng trong Thông tư;

- Các trường hợp được phép và không được phép thể hiện là hàng hóa của Việt Nam, cách thức và ngôn ngữ thể hiện;

- Các trường hợp, tiêu chí để hàng hóa được coi là hàng hóa của Việt Nam;

- Các quy định khác liên quan đến việc xác định hàng hóa của Việt Nam (gia công đơn giản, bao bì phụ kiện, tỷ lệ linh hoạt, yếu tố gián tiếp);

- Quyền và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa và tổ chức thực hiện.

Trường hợp nào thì hàng hóa được phép thể hiện là hàng hóa của Việt Nam?

Hàng hóa được phép thể hiện là hàng hóa của Việt Nam trong 2 trường hợp sau:

- Hàng hóa có xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất toàn bộ tại Việt Nam theo quy định tại Điều 8 Thông tư.

- Hàng hóa có xuất xứ không thuần túy hoặc không được sản xuất toàn bộ tại Việt Nam nhưng trải qua công đoạn gia công, chế biến cuối cùng tại Việt Nam làm thay đổi cơ bản tính chất của hàng hóa theo quy định tại Điều 9 của Thông tư.

Tại sao trong ASEAN hàng hóa phải đạt hàm lượng giá trị gia tăng là 40% mới được coi là đáp ứng quy tắc xuất xứ mà tại Thông tư này, chỉ cần hàm lượng 30% đã được coi là hàng hóa Việt Nam?

Trong Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) và các hiệp định thương mại tự do (FTA) khác, hàm lượng giá trị gia tăng được gọi "hàm lượng giá trị khu vực" (RVC). Tên gọi này đã thể hiện tính chất "khu vực" của quy tắc xuất xứ, tức là cho phép cộng gộp xuất xứ của các nước thành viên.

Ví dụ, với RVC 40% trong ASEAN thì 1 sản phẩm có 20% giá trị của Thái Lan, 10% của Philippines, 5% của Lào và 5% của Việt Nam sẽ được coi là đạt tiêu chí xuất xứ ASEAN và được cấp Giấy chứng nhận xuất xứ Mẫu D. Thông tư này quy định chặt hơn. Cụ thể, tỷ lệ giá trị gia tăng 30% nêu tại Thông tư là chỉ tính riêng giá trị của Việt Nam.

Với quy định như tại dự thảo Thông tư, nhiều sản phẩm có thể đáp ứng xuất xứ ASEAN và được cấp Giấy chứng nhận xuất xứ Mẫu D nhưng chưa chắc đã đủ điều kiện để được coi là hàng hóa của Việt Nam.

Với hàng hóa có xuất xứ không thuần túy, có phải cứ đạt hàm lượng giá trị gia tăng trên 30% là được coi là hàng hóa của Việt Nam?

Không nhất thiết. Hàng hóa có xuất xứ không thuần túy chỉ được coi là hàng Việt Nam khi khâu sản xuất, chế biến cuối cùng diễn ra tại Việt Nam và khâu đó phải làm thay đổi cơ bản tính chất của hàng hóa, không phải là gia công, chế biến đơn giản như quy định tại Điều 10 của dự thảo Thông tư.

Tại phụ lục các danh mục hàng hóa kèm theo dự thảo Thông tư, Bộ Công Thương liệt kê các mặt hàng, trong đó hầu hết phải đạt tỷ lệ hàm lượng giá trị gia tăng nội địa 30% (một số ít sản phẩm 40%). Như vậy ngoài việc phải đảm bảo công đoạn cuối cùng không phải là công đoạn đơn giản, thì đây là tỷ lệ tối thiểu giá trị gia tăng nội địa của sản phẩm nếu muốn được công nhận, dán mác hàng sản xuất tại Việt Nam?

Đối với một mặt hàng cụ thể, nếu tiêu chí xác định "hàng hóa của Việt Nam" là VAC 30% thì 30% là ngưỡng thấp nhất mà VAC của hàng hóa đó phải đạt được để được coi là hàng hóa của Việt Nam.

Thông tư có đặt ra thủ tục hành chính nào buộc doanh nghiệp phải tuân thủ hay không?

Dự thảo Thông tư không quy định bất kỳ một thủ tục hành chính mới nào mà doanh nghiệp phải tuân thủ.

Thực hiện quy định của Thông tư có làm doanh nghiệp phát sinh thêm chi phí gì không?

Thông tư sẽ không làm phát sinh thêm chi phí cho doanh nghiệp bởi ghi nhãn hàng hóa và công bố nước xuất xứ trên nhãn hàng hóa đã từ lâu là yêu cầu bắt buộc theo quy định của Nghị định 43/2017/NĐ-CP. Thông tư chỉ giúp các tổ chức, cá nhân có căn cứ để thực hiện đúng yêu cầu của Nghị định 43, giúp loại bỏ các trường hợp vô tình hay cố tình vi phạm thông tin về nước xuất xứ.

Với Thông tư này, các doanh nghiệp chân chính sẽ không phải đối diện với nguy cơ cáo buộc "gian lận xuất xứ", tránh được rủi ro kiện tụng và mất uy tín với người tiêu dùng. Ngoài ra, kết hợp với việc thực thi nghiêm túc Nghị định 43 tại cửa khẩu, Thông tư cũng sẽ giúp loại bỏ dần tình trạng hàng nhập khẩu nhập nhèm "đội lốt" hàng Việt Nam như đã rải rác xảy ra trong thời gian qua.

Doanh nghiệp lo ngại về việc tự xác định và ghi nhãn "Sản xuất tại Việt Nam" không biết có đảm bảo chính xác không. Bộ Công Thương có tính đến khả năng Nhà nước có cơ quan đứng ra đánh giá và cấp giấy công nhận để họ yên tâm?

Ban soạn thảo chưa bao giờ tính đến khả năng này bởi cơ chế "đánh giá - công nhận" sẽ thực sự là gánh nặng cho cả doanh nghiệp cũng như cơ quan quản lý. Thông tư này, nếu được ban hành, sẽ do doanh nghiệp tự giác thực hiện. Nhà nước chỉ sử dụng Thông tư để phân xử đúng - sai khi xuất hiện tình huống đòi hỏi phải có sự phân xử đúng - sai, thí dụ như vụ Khaisilk trước đây.

Các sản phẩm từ trước tới nay vẫn được dán nhãn “Made in Viet Nam” hay sử dụng danh xưng "hàng Việt Nam" sẽ được ứng xử ra sao?

Kể từ ngày Thông tư có hiệu lực thi hành, việc thể hiện nội dung hàng hóa của Việt Nam trên nhãn hàng hóa và/hoặc trên tài liệu, vật phẩm chứa đựng thông tin liên quan đến hàng hóa phải tuân thủ các quy định của Thông tư, không có ngoại lệ.

Dự thảo Thông tư mới đưa ra các tiêu chí xác định như thế nào là hàng hóa của Việt Nam hay sản xuất tại Việt Nam. Tại sao không đề cập đến các khái niệm như "Lắp ráp tại Việt Nam", hay "Sản xuất bởi [công ty nào đó]", hay "Thiết kế tại Việt Nam", hay "Thiết kế bởi [công ty nào đó]"? Một sản phẩm không đủ điều kiện để thể hiện là hàng hóa Việt Nam sẽ ghi xuất xứ của nước nào nếu doanh nghiệp nhập khẩu đầu vào từ nhiều nước khác nhau?

Ban soạn thảo đã dự thảo 1 điều khoản đề cập đến các khái niệm này để giúp doanh nghiệp có thêm các hình thức thể hiện trong trường hợp hàng hóa không đáp ứng được các tiêu chí để được coi là hàng hóa của Việt Nam. Tuy nhiên, do Điều 15 của Nghị định 43/2017 không cho phép doanh nghiệp được sử dụng các cụm từ này, Thông tư lại là văn bản dưới cấp Nghị định nên Ban soạn thảo đã phải bỏ điều khoản này ra. Cho tới nay, chúng tôi cũng chưa rõ Bộ Tư pháp có chấp nhận Điều 4 của dự thảo Thông tư hay không bởi Điều này đưa ra các quy định rộng hơn so với Điều 15 của Nghị định 43/2017.

Vấn đề hình thức văn bản là một trong những vấn đề gây tranh luận trong quá trình trao đổi về sự cần thiết phải ban hành một văn bản quy phạm pháp luật giúp xác định như thế nào là hàng hóa của Việt Nam. Ban soạn thảo nhận thấy nên ban hành ở cấp Nghị định nhưng một số cơ quan khác lại không cho là như vậy. Họ không sai bởi Nghị định chỉ dùng để hướng dẫn luật trong khi chúng ta lại chưa có luật về thế nào là hàng hóa của Việt Nam. Nếu ban hành Nghị định thì sẽ là một Nghị định "không đầu", điều không được luật pháp hiện hành cho phép.

Xuất phát từ đây, nếu doanh nghiệp nhập khẩu đầu vào từ nhiều nước khác nhau, sản phẩm cuối cùng lại không đủ điều kiện để thể hiện là hàng hóa của Việt Nam thì doanh nghiệp sẽ thể hiện xuất xứ theo quy định của Nghị định 43/2017, tức là tự xác định và tự chịu trách nhiệm, miễn là đừng ghi xuất xứ Việt Nam.

Các trường hợp vi phạm quy định của Thông tư sẽ áp dụng chế tài như thế nào?

Theo quy định tại Dự thảo, Tổng cục Quản lý thị trường là đơn vị chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan của Bộ Công Thương và các cơ quan có thẩm quyền khác tổ chức thực hiện việc kiểm tra, thanh tra, xử lý các vi phạm trong quá trình thực thi Thông tư này. Trường hợp phát hiện vi phạm, Tổng cục Quản lý thị trường và các cơ quan có thẩm quyền khác sẽ tùy theo mức độ vi phạm để đưa ra chế tài xử lý phù hợp với quy định của pháp luật.

Bộ Công Thương sẽ làm gì để doanh nghiệp, người dân cũng như các cơ quan quản lý liên quan hiểu được mục tiêu của Bộ Công Thương cũng như các quy định của Thông tư này?

Việc đăng tải Dự thảo Thông tư là bước đầu tiên. Sau đó Bộ Công Thương sẽ tổ chức các buổi hội thảo giới thiệu dự thảo và xin ý kiến các hiệp hội, doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân có liên quan về các quy định tại dự thảo.

Bộ Công Thương cũng sẽ phối hợp chặt chẽ với các cơ quan truyền thông để giải thích, làm rõ về mục tiêu ban hành Thông tư cũng như những nội dung mang tính kỹ thuật để doanh nghiệp, người dân có thể hiểu và góp ý được sát thực nhất.

Thu Giang – Thảo Trang (lược ghi)

Tin bài khác
CPI 10 tháng tăng 3,27%, lạm phát cơ bản được kiểm soát

CPI 10 tháng tăng 3,27%, lạm phát cơ bản được kiểm soát

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 10 tháng năm 2025 tăng 3,27%, lạm phát cơ bản 3,20%. Giá thực phẩm, giáo dục tăng nhẹ nhưng lạm phát vẫn trong tầm kiểm soát.
10 tháng năm 2025: Xuất nhập khẩu vượt mốc 762 tỷ USD, FDI cao nhất 5 năm qua

10 tháng năm 2025: Xuất nhập khẩu vượt mốc 762 tỷ USD, FDI cao nhất 5 năm qua

10 tháng năm 2025, xuất nhập khẩu tăng trưởng ấn tượng, vượt mốc 762 tỷ USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ước đạt 21,3 tỷ USD, cao nhất của 10 tháng trong 5 năm qua.
Hoàn thiện khung pháp lý cho mô hình đô thị công nghệ cao

Hoàn thiện khung pháp lý cho mô hình đô thị công nghệ cao

Chiều 6/11, tại phiên thảo luận Tổ 15 (gồm Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Phú Thọ và Đắk Lắk) về dự án Luật Công nghệ cao (sửa đổi), nhiều đại biểu cho rằng cần sớm hoàn thiện khung pháp lý cho mô hình “đô thị công nghệ cao”, nhằm bảo đảm tính khả thi, thống nhất và tránh tình trạng áp dụng tùy tiện trong quy hoạch, chính sách.
Vốn FDI vào Việt Nam đạt mức cao nhất trong 5 năm

Vốn FDI vào Việt Nam đạt mức cao nhất trong 5 năm

Theo Cục Thống kê, vốn FDI thực hiện trong 10 tháng đầu năm ước đạt 21,3 tỷ USD, tăng 8,8 % – là mức cao nhất trong cùng kỳ 5 năm qua.
Quốc hội bàn giải pháp tháo gỡ “điểm nghẽn” trong thi hành Luật Đất đai

Quốc hội bàn giải pháp tháo gỡ “điểm nghẽn” trong thi hành Luật Đất đai

Tại Phiên họp thứ 51 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XV dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn và điều hành của các Phó Chủ tịch Quốc hội, nội dung trọng tâm là cho ý kiến về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội quy định một số cơ chế, chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thi hành Luật Đất đai.
Hải Phòng mở rộng hợp tác chiến lược với Thụy Điển trong chuyển đổi số và năng lượng sạch

Hải Phòng mở rộng hợp tác chiến lược với Thụy Điển trong chuyển đổi số và năng lượng sạch

Chuyến thăm và làm việc của Đoàn Bộ Năng lượng, Kinh doanh và Công nghiệp Thụy Điển do Thứ trưởng Sara Modig dẫn đầu tại Hải Phòng đánh dấu bước tiến mới trong quan hệ hợp tác giữa thành phố cảng và Vương quốc Thụy Điển, hướng tới phát triển bền vững, chuyển đổi xanh và đổi mới sáng tạo.
5 trụ cột cho một chiến lược bền vững

5 trụ cột cho một chiến lược bền vững

Để kinh tế tư nhân thực sự trở thành động lực tăng trưởng chủ lực, cần triển khai đồng bộ 5 đột phá chiến lược: Hoàn thiện thể chế tín dụng công bằng; Số hóa và liên thông dữ liệu tài chính; Phát triển thị trường vốn dài hạn; Thu hút vốn đầu tư quốc tế minh bạch; Nâng cao năng lực con người. Khi những trụ cột này được thiết lập vững chắc, dòng vốn sẽ lưu thông thông suốt, năng lực quản trị được nâng lên và sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam sẽ bước sang một trang mới.
Hà Nội phê duyệt Đề án hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2026 – 2030 - động lực mới cho kinh tế Thủ đô

Hà Nội phê duyệt Đề án hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2026 – 2030 - động lực mới cho kinh tế Thủ đô

UBND TP Hà Nội vừa phê duyệt Đề án “Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) trên địa bàn thành phố giai đoạn 2026 – 2030”, với mục tiêu thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, mở rộng xuất khẩu và hướng tới tăng trưởng bền vững, đồng thời cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính và phát triển hệ sinh thái doanh nghiệp.
Biển chẳng bao giờ lặng sóng – Hải Phòng mãi vươn xa

Biển chẳng bao giờ lặng sóng – Hải Phòng mãi vươn xa

Có những khoảnh khắc không chỉ khắc sâu trong lịch sử mà còn trở thành dấu mốc định hình tương lai, Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Hải Phòng lần thứ I là khoảnh khắc như thế — nơi hội tụ trí tuệ, bản lĩnh và ý chí của cả một thời kỳ mới.
Sửa Luật Quản lý nợ công: Rút ngắn thủ tục, mở rộng quyền tiếp cận vốn cho doanh nghiệp

Sửa Luật Quản lý nợ công: Rút ngắn thủ tục, mở rộng quyền tiếp cận vốn cho doanh nghiệp

Dự án Luật Quản lý nợ công sửa đổi nhiều nội dung liên quan để đẩy mạnh phân cấp, phần quyền gắn kiểm tra giám sát trong quản lý nợ công.
Sửa đổi Luật Quản lý nợ công: Củng cố niềm tin nhà đầu tư

Sửa đổi Luật Quản lý nợ công: Củng cố niềm tin nhà đầu tư

Sáng 3/11, tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XV, cho ý kiến về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý nợ công, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh yêu cầu rà soát kỹ lưỡng, đảm bảo vừa tạo thuận lợi trong công tác quản lý nợ, vừa củng cố nền tảng tài chính quốc gia và tăng niềm tin của nhà đầu tư đối với môi trường kinh tế Việt Nam.
Doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo ở Hải Phòng được miễn thuế 5 năm – cú hích lớn cho hệ sinh thái đổi mới

Doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo ở Hải Phòng được miễn thuế 5 năm – cú hích lớn cho hệ sinh thái đổi mới

Hội đồng nhân dân thành phố Hải Phòng khóa XVI vừa thông qua tại Kỳ họp thứ 30 và Chủ tịch HĐND thành phố Lê Văn Hiệu đã ký ban hành Nghị quyết quy định tiêu chí, điều kiện, trình tự, thủ tục ưu đãi thuế đối với các hoạt động khởi nghiệp sáng tạo, đổi mới sáng tạo, vi mạch bán dẫn và trí tuệ nhân tạo theo quy định tại Nghị quyết số 226/2025/QH15 của Quốc hội.
Nếu Mỹ - Trung Quốc đạt được thoả thuận thì doanh nghiệp Việt Nam được hưởng lợi gì?

Nếu Mỹ - Trung Quốc đạt được thoả thuận thì doanh nghiệp Việt Nam được hưởng lợi gì?

Giữa lúc cả thế giới dõi theo từng bước dịch chuyển trong mối quan hệ Mỹ – Trung, tín hiệu về một thỏa thuận chiến lược giảm căng thẳng giữa hai siêu cường quốc đang thắp lên hy vọng mới cho kinh tế toàn cầu. Nhưng với Việt Nam – quốc gia nằm giữa hai trung tâm sản xuất và tiêu dùng lớn nhất hành tinh, câu hỏi lớn hơn là: liệu “cái bắt tay” ấy sẽ mang cơ hội hay tạo sức ép mới cho doanh nghiệp Việt Nam sắp tới đây?
Hợp lực vươn xa: Hải Phòng khơi dòng kết nối giữa FDI và doanh nghiệp nội địa

Hợp lực vươn xa: Hải Phòng khơi dòng kết nối giữa FDI và doanh nghiệp nội địa

Ban Quản lý Khu kinh tế Hải Phòng vừa tổ chức Hội nghị kết nối doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp phụ trợ trong nước năm 2025, nhằm mở rộng chuỗi cung ứng nội địa, tăng cường hợp tác đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh cho cộng đồng doanh nghiệp thành phố.
Chính phủ thông qua nội dung dự án Luật Thương mại điện tử

Chính phủ thông qua nội dung dự án Luật Thương mại điện tử

Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết số 352/NQ-CP, thống nhất thông qua nội dung dự án Luật Thương mại điện tử (TMĐT) – văn bản pháp lý được kỳ vọng sẽ tạo hành lang minh bạch, đồng bộ và hiện đại cho nền kinh tế số đang phát triển mạnh mẽ của Việt Nam.