Thứ sáu 04/07/2025 22:37
Hotline: 024.355.63.010
Kinh doanh

Công nghiệp hỗ trợ: Không thể chỉ trông vào nước nổi, bèo nổi

12/10/2020 00:00
Cơ hội Việt Nam len chân vào chuỗi giá trị, thay thế các khúc đứt gãy không phải như miếng bánh bày trước mặt.

Việt Nam phải tận dụng năng lực sẵn có và phát huy nội lực, chứ không phải chỉ chú trọng và ưu đãi thu hút đầu tư nước ngoài. Trong ảnh: Sản xuất điện thoại tại Nhà máy Vsmart.

Việt Nam phải tận dụng năng lực sẵn có và phát huy nội lực, chứ không phải chỉ chú trọng và ưu đãi thu hút đầu tư nước ngoài. Trong ảnh: Sản xuất điện thoại tại Nhà máy Vsmart.

Bức tranh công nghiệp hỗ trợ vẫn thiếu nét

Trước hết, ở góc độ phân loại ngành công nghiệp, không có ngành nào gọi là ngành công nghiệp hỗ trợ (trước đây gọi là phụ trợ). Đây chỉ là cách diễn đạt mô tả hoạt động tổ chức sản xuất công nghiệp có sự phân công và hợp tác cao độ. Một sản phẩm cuối cùng hình thành có sự phụ thuộc vào chuỗi sản xuất cung ứng trước đó.

Thuật ngữ “công nghiệp hỗ trợ” được đặt ra trong bối cảnh nền sản xuất của Việt Nam trước kia với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, việc tổ chức sản xuất một sản phẩm thường khép kín trong một nhà máy.

Trong khoảng 20 năm trở lại đây, có ngành công nghiệp đã hình thành chuỗi cung ứng rất điển hình là công nghiệp xe máy. Với thị trường mỗi năm tiêu thụ hơn 3 triệu sản phẩm là sản lượng dễ đạt được hiệu quả do sản xuất hàng loạt mang lại (economy of scale), khi thực hiện nội địa hóa, không khó phát triển chuỗi cung ứng với sự chuyên môn hóa và chuyên nghiệp ở mỗi khâu. Chuỗi cung ứng hình thành do nhu cầu và thuận lợi của thị trường mang lại, không đòi hỏi phải có một chính sách nào gọi là phát triển công nghiệp hỗ trợ.

Tuy nhiên, với ngành công nghiệp ô tô, điều kiện phát triển lại hoàn toàn khác. Tổng thị trường vài trăm ngàn xe/năm, nhưng với hàng chục loại xe được lắp ráp, thì sản xuất linh kiện có sản lượng tối đa vài chục ngàn chiếc/năm cũng rất khó cạnh tranh. Không thể có ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, giảm tiền thuê đất hay các chính sách thu hút và hỗ trợ nào khác có thể bù đắp được chi phí đầu tư về thiết bị, nhân lực và hệ thống quản lý đòi hỏi cao hơn nhiều so với sản xuất các loại linh kiện xe 2 bánh.

Chính vì vậy, đến giờ, chưa có công nghiệp hỗ trợ đối với ô tô ở Việt Nam, ngoài một số ít linh kiện đã tham gia chuỗi cung ứng quốc tế. Nhưng từ năm 2000 đến nay, Thái Lan đã kịp hình thành ngành công nghiệp ô tô với sản lượng khoảng 2 triệu xe/năm (một nửa là xuất khẩu).

Trong khi đó, lĩnh vực điện tử đã thu hút được hàng tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đóng góp tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu quốc gia. Mặc dù sản lượng rất lớn, nhưng khi có chính sách quá ưu đãi về đất đai, hạ tầng, thuế thu nhập ở khâu lắp ráp, cộng với việc đáp ứng nhân công rẻ, nhập linh kiện không bị giới hạn về hàng rào thuế quan, cũng như năng lực cung ứng từ bên ngoài, thì nhu cầu phát triển sản xuất linh kiện tại chỗ (thường phải mất nhiều thời gian) cũng không cao.

Còn sản phẩm điện thoại từ Việt Nam xuất khẩu nhiều tỷ USD mỗi năm, nhưng phụ thuộc chủ yếu vào chuỗi cung ứng từ nước ngoài.

Trong nhiều loại sản phẩm công nghiệp nặng hay công nghiệp nhẹ, tính từ khi mở cửa và hội nhập đến nay, Việt Nam chỉ kịp chú trọng một số phân đoạn sản xuất thuận lợi nhất, mà chưa thể tính đến sự phát triển bền vững dựa trên khả năng tự chủ của cả ngành công nghiệp. Ví dụ, ngành dệt may, da giày không phát triển công nghiệp sợi, dệt; ô tô và điện thoại tập trung vào lắp ráp; sản xuất cơ khí thì tìm kiếm lợi nhuận khi tham gia chuỗi cung ứng cho nước ngoài.

Thực tế, chuỗi cung ứng chỉ xuất hiện nổi bật ở một số sản phẩm đặc thù, khi nhà cung ứng có tính chuyên môn hoá cao, số lượng nhà cung ứng đối với một sản phẩm rất lớn. Có thể thấy rõ điều này ở các sản phẩm cơ khí phức tạp và sản xuất số lượng lớn như ô tô, xe máy. Khi sản phẩm đầu ra bị đình trệ thì kéo theo cả chuỗi đình trệ. Nếu một mắt xích cung ứng bị sự cố thì cũng kéo theo toàn bộ chuỗi bị ngừng vì không đồng bộ.

Cũng có nhiều loại sản phẩm có quan hệ cung cấp cho nhau, nhưng có thể không được coi là chuỗi cung ứng, như xi măng, sắt thép cung cấp cho xây dựng cao ốc; vải cho dệt may; quặng mua trên thị trường cho luyện kim; gạo, ngô cho chế biến thức ăn gia súc…

Không thể chờ “nước nổi, bèo nổi”

Với ảnh hưởng của Covid-19 ở phạm vi toàn cầu, nhiều thị trường suy giảm, nhiều sản phẩm không còn nhu cầu, không tiêu thụ được kéo theo cả chuỗi cung ứng trì trệ. Song cũng phải nói rõ, các sản phẩm có chuỗi cung ứng chặt chẽ và lâu dài, thì không có chuyện một mắt xích nào đó dễ dàng bị đứt khi sản xuất hồi phục.

Ngoài ra, thị trường còn vô vàn sản phẩm, hàng hoá không thể kể tên. Nhiều sản phẩm có vòng đời theo các chu kỳ dài ngắn khác nhau, chẳng cứ có bệnh dịch hay không và chuỗi cung ứng cũng rất linh hoạt.

Vì vậy, điều Việt Nam quan tâm lúc này là, liệu Việt Nam có tận dụng được các cơ hội trong thời gian tới. Một trong những cơ hội là có thêm thị trường tham gia chuỗi cung ứng và phát triển công nghiệp hỗ trợ.

Thực tế là, trừ nông nghiệp, Việt Nam khó có thể tham gia chuỗi sản xuất của hầu hết các sản phẩm công nghiệp. Việt Nam không có ngành luyện kim, vật liệu cho chế tạo máy, không có bông, sợi, vải cho may mặc, vật tư cho da giày, không chế tạo được linh kiện điện, điện tử. Hầu hết sản phẩm, nếu có nhu cầu sản xuất tại Việt Nam, vẫn lệ thuộc nguồn cung ứng bên ngoài.

Trong cả 5 yếu tố của sản xuất (5M), Việt Nam đều không thể làm chủ và đáp ứng ngay được, nên khó thu hút khi phải cạnh tranh về thời gian. Nhân lực (Manpower) phải mất công đào tạo. Hệ thống quản lý (Management) phải xây dựng phù hợp. Máy móc (Machinery) phải tìm mua. Vật tư (Material) phụ thuộc nhập khẩu. Công nghệ (Method) không thể dễ dàng có được. Tất cả yếu tố này, nếu đáp ứng được, còn liên quan đến khả năng cạnh tranh về giá của sản phẩm về sau.

Trước mắt, Việt Nam có thể tận dụng khai thác được những năng lực sản xuất của các ngành có sẵn, nếu những sản phẩm tương tự được dịch chuyển từ nước khác về Việt Nam. Trong số sản phẩm này, có thể có sản phẩm may mặc, da giày, lắp ráp điện tử, linh kiện cơ khí chế tạo.

Việc tận dụng cơ hội là cần thiết, nhưng năng lực hiện tại của Việt Nam dường như phụ thuộc vào chuyện “nước nổi bèo nổi” nhiều hơn, chứ chưa có ưu thế cạnh tranh trong những thời điểm quyết định.

Về lâu dài, nền sản xuất của Việt Nam phải cơ cấu theo hướng tự đáp ứng trong nước nhiều hơn.

Việt Nam có tỷ trọng GDP/giá trị xuất khẩu/giá trị nhập khẩu khá tương đương nhau, thể hiện độ mở hết cỡ với bên ngoài. Ví dụ, năm 2019, GDP là 266,5 tỷ USD, kim ngạch xuất khẩu khoảng 263 tỷ USD trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu là 516 tỷ USD. Trong khi đó, các nước phát triển hay các nước có GDP tương đương Việt Nam, cao lắm cũng chỉ phụ thuộc vài chục phần trăm GDP vào các thị trường xuất nhập khẩu.

Cụ thể, tỷ lệ GDP/giá trị xuất khẩu/giá trị nhập khẩu của Việt Nam hiện là 1/1/1; cần điều chỉnh theo hướng là 1/0,5/0,5. Trong khi đó, Thái Lan là 1/0,46/0,45; USA là 1/0,08/0,12; còn Trung Quốc là 1/0,18/0,15. Nước có quy mô dân số ít như Israel không những GDP gấp rưỡi Việt Nam, nhưng rất ít lệ thuộc bên ngoài, khi có tỷ lệ là 1/0,16/0,2.

Về năng lực sản xuất, trước hết, phải tận dụng năng lực sẵn có và phát huy nội lực, chứ không phải chỉ chú trọng và ưu đãi thu hút đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp có vốn nhà nước đã có chủ trương cổ phần hoá cần phải nhanh chóng thực hiện. Việc lo lắng bán rẻ vốn nhà nước đang khiến quá trình này bị chậm trễ và khi cổ phần hoá xong, doanh nghiệp cũng không có thuận lợi gì để hoạt động và không tận dụng được thời gian nhanh chóng hội nhập và phát triển.

Thủ tướng giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng Đề án về các giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ

Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng ngay Đề án về các giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ, báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Yêu cầu này được ghi trong Thông báo 185/TB-VPCP của Văn phòng Chính phủ về kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại cuộc họp Thường trực Chính phủ về Dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất - kinh doanh, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công và đảm bảo trật tự an toàn xã hội trong bối cảnh đại dịch Covid -19.

Đề án nhằm mục tiêu đón đầu và tận dụng cơ hội từ làn sóng dịch chuyển đầu tư sau đại dịch Covid-19, phát triển hệ sinh thái đối với ngành sản xuất ô tô. Đây là việc làm cấp bách trong giai đoạn này.

Cùng với đó, Thủ tướng yêu cầu các bộ (Công thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thông tin và Truyền thông, Khoa học và Công nghệ) và các bộ, cơ quan liên quan và các tỉnh, thành phố phải chủ động có biện pháp đón các dòng đầu tư mới vào Việt Nam.

Ngô Thái Bình

Tin bài khác
DIC Corp chuyển nhượng Lam Hạ Center Point, thu về nghìn tỷ

DIC Corp chuyển nhượng Lam Hạ Center Point, thu về nghìn tỷ

DIC Corp được chấp thuận chuyển nhượng dự án Lam Hạ Center Point, dự kiến thu hơn 1.100 tỷ đồng. Đây là bước đi chiến lược giúp tập đoàn tái cơ cấu tài chính.
Gần 37 triệu lượt xe động lực khiến VEC tăng tốc mở rộng cao tốc?

Gần 37 triệu lượt xe động lực khiến VEC tăng tốc mở rộng cao tốc?

Trong 6 tháng đầu 2025, các tuyến cao tốc VEC phục vụ gần 37 triệu lượt xe, tăng 9,43%. Mở rộng quy mô, khởi công dự án mới, hướng đến hệ thống giao thông hiện đại.
Xuất khẩu rau quả 2025: Áp lực lớn, khó cán mốc 7,6 tỷ USD

Xuất khẩu rau quả 2025: Áp lực lớn, khó cán mốc 7,6 tỷ USD

Dù được kỳ vọng là ngành hàng tăng trưởng nhanh nhờ lợi thế mùa vụ và các hiệp định thương mại tự do, xuất khẩu rau quả năm 2025 đang đối mặt với thách thức lớn, khi thị trường chủ lực giảm mạnh nhập khẩu. Mục tiêu đạt 7,6 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu vì thế trở nên đầy áp lực.
Rút ngắn đăng ký doanh nghiệp “đòn bẩy” cho khởi nghiệp, đầu tư

Rút ngắn đăng ký doanh nghiệp “đòn bẩy” cho khởi nghiệp, đầu tư

Rút ngắn thời gian đăng ký doanh nghiệp, hộ kinh doanh. Đây là cú hích mạnh mẽ, tạo thuận lợi tối đa cho khởi nghiệp và thu hút đầu tư, minh bạch hóa thủ tục.
Làn sóng khởi nghiệp bùng nổ: Kỷ lục doanh nghiệp thành lập sau Nghị quyết 68

Làn sóng khởi nghiệp bùng nổ: Kỷ lục doanh nghiệp thành lập sau Nghị quyết 68

Theo số liệu công bố tại họp báo thường kỳ Bộ Tài chính ngày 2/7, số lượng doanh nghiệp thành lập mới trong tháng 6 đã đạt mức cao kỷ lục – hơn 24.000 doanh nghiệp, gấp rưỡi mức bình quân tháng những năm trước và tăng gấp đôi so với giai đoạn 2021–2024.
Startup Việt AI Hay gọi vốn 10 triệu USD, lọt top 10 ứng dụng AI Đông Nam Á

Startup Việt AI Hay gọi vốn 10 triệu USD, lọt top 10 ứng dụng AI Đông Nam Á

Theo ông Trần Quang Đức - CEO AI Hay, khoản đầu tư lần này là nguồn lực tài chính quan trọng giúp công ty tiếp tục mở rộng nền tảng web, phát triển các tính năng mới và đưa AI đi sâu vào các lĩnh vực.
Giải pháp tiếp thị “0 đồng” toàn diện với Partnership Marketing

Giải pháp tiếp thị “0 đồng” toàn diện với Partnership Marketing

Partnership Marketing “Marketing 0 đồng”, một ý tưởng nghe qua tưởng như phi thực tế – lại đang trở thành một lối đi hiệu quả được rất nhiều doanh nghiệp lớn nhỏ lựa chọn
Quy định mới về cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) thông qua Hệ thống eCoSys

Quy định mới về cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) thông qua Hệ thống eCoSys

Thông tư số 40/2025/TT-BCT của Bộ Công Thương quy định chi tiết về việc cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) và chấp thuận bằng văn bản cho thương nhân tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa xuất khẩu, chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2025.
CEO Success Partner Lê Nhật Trường Chinh: Động lực không đến từ cổ vũ mà từ môi trường nuôi dưỡng

CEO Success Partner Lê Nhật Trường Chinh: Động lực không đến từ cổ vũ mà từ môi trường nuôi dưỡng

CEO Success Partner Lê Nhật Trường Chinh chia sẻ quan điểm sâu sắc: Người lãnh đạo giỏi không tạo động lực bằng lời khen, mà bằng cách xây dựng môi trường giúp nhân viên tự khơi dậy nội lực.
Doanh nghiệp không cần điều chỉnh thông tin địa chỉ trên hóa đơn điện tử sau khi cập nhật địa giới hành chính

Doanh nghiệp không cần điều chỉnh thông tin địa chỉ trên hóa đơn điện tử sau khi cập nhật địa giới hành chính

Từ ngày 1/7, doanh nghiệp không cần thay đổi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hay chỉnh sửa địa chỉ trên hóa đơn điện tử sau khi địa giới hành chính được cập nhật. Cơ quan thuế sẽ tự động đồng bộ dữ liệu, đảm bảo quyền lợi và tránh xử phạt.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa: Cần thích ứng nhanh với thị trường phát thải

Doanh nghiệp nhỏ và vừa: Cần thích ứng nhanh với thị trường phát thải

Trong bối cảnh xu hướng giảm phát thải trở thành tiêu chuẩn bắt buộc tại nhiều thị trường xuất khẩu lớn, doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước buộc phải thay đổi nhanh mô hình sản xuất và quản trị carbon. Việc chậm thích ứng không chỉ khiến mất đơn hàng, mà còn đẩy doanh nghiệp ra khỏi chuỗi cung ứng toàn cầu.
Doanh nghiệp ngành nhôm: "Nâng cấp" bản thân để tránh rủi ro xuất khẩu

Doanh nghiệp ngành nhôm: "Nâng cấp" bản thân để tránh rủi ro xuất khẩu

Trước xu hướng hội nhập đa phương và xu thế bảo hộ nền sản xuất của các quốc gia hiện nay, thời gian qua, ngành nhôm liên tiếp đối mặt với các cuộc điều tra phòng vệ thương mại của nước ngoài, nhất là thị trường Mỹ
Doanh nghiệp ngành nhôm Việt Nam: Cùng nhận diện cơ hội và thách thức

Doanh nghiệp ngành nhôm Việt Nam: Cùng nhận diện cơ hội và thách thức

Nhằm tạo diễn đàn để cùng thảo luận tìm ra hướng đi mới cho ngành nhôm; đồng thời tạo kết nối cho các doanh nghiệp, sáng ngày 28/6, Hiệp hội Nhôm Việt Nam tổ chức Diễn đàn doanh nghiệp ngành nhôm Việt Nam 2025 với chủ đề “Nhận diện cơ hội và thách thức của ngành nhôm”.
Thuế - Trách nhiệm không thể bỏ qua trong kinh doanh số

Thuế - Trách nhiệm không thể bỏ qua trong kinh doanh số

Thương mại điện tử bùng nổ mở ra cơ hội kinh doanh chưa từng có, nhưng cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết về tuân thủ nghĩa vụ thuế. Trong kỷ nguyên số, mọi hành vi né tránh nghĩa vụ tài chính với Nhà nước không chỉ gây thất thu ngân sách mà còn tạo ra sự bất bình đẳng trên thị trường.
Doanh nghiệp sử dụng năng lượng như thế nào giúp tiết kiệm và hiệu quả?

Doanh nghiệp sử dụng năng lượng như thế nào giúp tiết kiệm và hiệu quả?

Trong bối cảnh toàn cầu đang chuyển dịch mạnh mẽ sang mô hình phát triển xanh và bền vững, Việt Nam không đứng ngoài xu hướng đó. Góp phần vào thành quả đó có sự đóng góp quan trọng của các doanh nghiệp.