Nghị quyết số 70-NQ/TW đánh giá, sau 5 năm triển khai Nghị quyết 55-NQ/TW (2020), ngành năng lượng Việt Nam đã đạt được những kết quả tích cực, duy trì tăng trưởng ổn định, cơ bản đáp ứng yêu cầu về an ninh năng lượng, góp phần quan trọng vào phát triển nhanh và bền vững, bảo đảm quốc phòng – an ninh và nâng cao đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, lĩnh vực năng lượng vẫn bộc lộ nhiều hạn chế. Thể chế, chính sách và công tác quản lý còn bất cập; tiến độ nhiều dự án điện chậm; tiềm năng năng lượng chưa được khai thác hiệu quả; nguồn cung vẫn phụ thuộc lớn vào nhập khẩu, tiềm ẩn nguy cơ thiếu điện khi kinh tế tăng trưởng cao. Hạ tầng năng lượng còn thiếu đồng bộ, công nghệ chưa theo kịp yêu cầu, tỉ lệ nội địa hóa thiết bị quan trọng thấp, năng suất lao động chưa cao; thị trường năng lượng cạnh tranh chưa phát triển đầy đủ; chính sách giá còn bất cập, tồn tại tình trạng bù chéo.
Trước yêu cầu phát triển mới, Bộ Chính trị nhấn mạnh: bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia phải đi trước một bước, đóng vai trò nền tảng cho tăng trưởng kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh và đời sống nhân dân. Đảng lãnh đạo toàn diện; Nhà nước kiến tạo chính sách và hạ tầng; doanh nghiệp và người dân là trung tâm của phát triển; trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, khu vực tư nhân là một trong những động lực quan trọng.
![]() |
Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 70 về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia |
Nghị quyết xác định các định hướng lớn:
Phát triển năng lượng gắn với cơ chế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm công bằng xã hội, an ninh – quốc phòng và bảo vệ môi trường.
Xây dựng thị trường năng lượng đồng bộ, minh bạch, không bù chéo giá, khuyến khích khu vực tư nhân tham gia bình đẳng.
Phát triển đa dạng các loại hình năng lượng, ưu tiên năng lượng tái tạo, năng lượng sạch; có lộ trình giảm điện than; khai thác hợp lý năng lượng hóa thạch, phát triển điện hạt nhân, điện khí.
Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số, nâng cao nội địa hóa thiết bị, từng bước làm chủ công nghệ năng lượng hiện đại.
Khuyến khích tiết kiệm năng lượng, sử dụng hiệu quả, giảm phát thải, coi đó vừa là trách nhiệm vừa là quyền lợi xã hội.
Mục tiêu đến năm 2030: Việt Nam bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng, cung ứng đủ, ổn định, chất lượng cao; giảm phát thải khí nhà kính 15-35% so với kịch bản thông thường; đưa tỉ lệ năng lượng tái tạo trong tổng cung sơ cấp lên 25-30%; hệ thống điện thông minh, tin cậy, chỉ số tiếp cận điện năng thuộc nhóm 3 ASEAN; tổng công suất nguồn điện đạt 183-236 GW, sản lượng 560-624 tỷ kWh; các nhà máy lọc dầu đáp ứng tối thiểu 70% nhu cầu xăng dầu trong nước.
Tầm nhìn đến năm 2045: ngành năng lượng phát triển đồng bộ, bền vững, hạ tầng hiện đại – thông minh, kết nối khu vực và quốc tế; thị trường cạnh tranh minh bạch, hiệu quả; trình độ khoa học – công nghệ, năng lực quản trị ngang tầm các quốc gia công nghiệp phát triển; bảo đảm sử dụng hiệu quả tài nguyên, giảm phát thải và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Để hiện thực hóa mục tiêu, Bộ Chính trị đề ra các giải pháp trọng tâm: hoàn thiện thể chế, phát triển đa dạng nguồn cung, thúc đẩy đổi mới công nghệ, tăng cường dự trữ chiến lược, tiết kiệm năng lượng gắn với bảo vệ môi trường.