Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam đạt gấp đôi GDP nhờ hội nhập nhanh chóng

00:00 12/10/2020

Từ khi bắt đầu cải cách kinh tế vào năm 1986, Việt Nam đã không ngừng hội nhập nhanh chóng vào nền kinh tế toàn cầu. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đã đạt gấp đôi GDP, và luồng vốn FDI đổ vào Việt Nam trong năm 2018 đạt tương đương 8% GDP.

Các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam còn nhiều hạn chế

Theo báo cáo Triển vọng Phát triển Châu Á (ADO) 2019 của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), Việt Nam đã ký kết 12 hiệp định thương mại tự do, đưa nền kinh tế hội nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu (CGTTC). Tuy nhiên, việc tham gia vào CGTTC chủ yếu dựa vào các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp tư nhân trong nước chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV). Trong năm 2017, hơn nửa triệu DNNVV nội địa đóng góp khoảng gần một nửa GDP, nhưng rất ít doanh nghiệp tham gia vào CGTTC.

Cũng theo ADB, chất lượng sản phẩm, dịch vụ không đồng đều của các DNNVV là rào cản chính ngăn doanh nghiệp hội nhập với CGTTC. “Vấn đề này đặc biệt đáng quan tâm, trong bối cảnh các thị trường quốc tế ngày càng thắt chặt các tiêu chuẩn kỹ thuật, kiểm dịch, môi trường và sức khoẻ. DNNVV ít được tiếp cận với các công nghệ mới có thể giúp họ vượt qua được các rào cản này”, Ngân hàng ADB chỉ rõ.

Một Nghiên cứu về doanh nghiệp của Ngân hàng Thế giới cho thấy, DNNVV ở Việt Nam chủ yếu coi việc đổi mới sản phẩm là một cách để giảm chi phí chứ không phải để nâng cao chất lượng. Bên cạnh đó, có rất ít DNNVV mua sắm hoặc đăng ký sử dụng các công nghệ mới được phát triển ở các nước khác.

Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đã đạt gấp đôi GDP, và luồng vốn FDI đổ vào Việt Nam trong năm 2018 đạt tương đương 8% GDP. Ảnh minh họaKim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đã đạt gấp đôi GDP, và luồng vốn FDI đổ vào Việt Nam trong năm 2018 đạt tương đương 8% GDP. Ảnh minh họa

Trên thực tế, ADB cũng chỉ ra rằng, các DNNVV ở Việt Nam còn nhiều hạn chế. Năng lực mua sắm và ứng dụng công nghệ mới của họ bị hạn chế bởi khó tiếp cận vốn và thiếu lực lượng lao động có kỹ năng cần thiết. Doanh nghiệp thường khó tiếp cận nguồn vốn với chi phí hợp lý do các điều kiện thế chấp vay vốn ngặt nghèo và thủ tục phức tạp, và thị trường vốn còn nghèo nàn, mặc dù đã có một số cơ chế cung cấp tín dụng cho DNNVV như: Quỹ Phát triển DNNVV, ngân hàng thương mại, quỹ bảo lãnh tín dụng và Ngân hàng Phát triển Việt Nam...

Về tình trạng thiếu lao động có tay nghề, một khảo sát mới đây của ManpowerGroup cho biết, chỉ có 11% doanh nghiệp Việt Nam có thể cung cấp được các kỹ năng cần thiết để tham gia vào CGTTC. Trong khi đó, kỷ nguyên phát triển dựa trên “chi phí thấp, kỹ năng thấp” của Việt Nam đã qua, và Việt Nam phải trở thành một nền kinh tế dựa trên kỹ năng cao.

Để giải quyết được những căn nguyên gốc rễ của vấn đề chất lượng sản phẩm không đồng đều, ADB cho rằng, các chính sách cần khuyến khích và hỗ trợ việc ứng dụng công nghệ mới, và trên hết là đổi mới sáng tạo ở trong nước. Các DNNVV cần có vốn để thuê mua trang thiết bị và công nghệ mới cho sản xuất.

“Việc phát triển các kỹ năng cần thiết đòi hỏi phải có giải pháp toàn diện và đồng bộ với sự vào cuộc của chính phủ, cơ sở đào tạo và doanh nghiệp tư nhân để cung cấp các dịch vụ đào tạo chuyên môn, đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu. Nếu không cải thiện được khả năng tiếp cận vốn và kỹ năng, DNNVV sẽ tiếp tục tụt hậu trên con đường hội nhập vào CGTTC”, báo cáo của ADB chỉ rõ.

Cần cải thiện khả năng tiếp cận nguồn tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ

Báo cáo của Ngân hàng Phát triển Châu Á nhấn mạnh, tầm quan trọng đối với Việt Nam trong việc tăng cường hội nhập các doanh nghiệp tư nhân vào các chuỗi giá trị toàn cầu, vốn là một trong những thách thức chính sách quan trọng đối với tăng trưởng dài hạn của Việt Nam.

ADB cho rằng, cần cải thiện khả năng tiếp cận nguồn tài chính của các DNVVN, cũng như nâng cao năng lực của các DNVVN - gồm cả kỹ năng của người lao động - là những biện pháp quan trọng để cho phép các DNVVN áp dụng tốt hơn các công nghệ mới và đạt được giá trị gia tăng cao trong các chuỗi giá trị toàn cầu.

Báo cáo của ADB cũng chỉ ra rằng, với việc giảm tốc độ tăng trưởng GDP và kiểm soát chặt chẽ hơn tín dụng trong các lĩnh vực có rủi ro cao như bất động sản, tăng trưởng tín dụng trong năm 2019 sẽ được duy trì dưới mức 14% của năm ngoái. Tiến trình giải quyết nợ xấu của hệ thống ngân hàng tiếp tục diễn ra trong năm 2019 và 2020.

“Nợ xấu – bao gồm cả số nợ đang được quản lý bởi Công ty Quản lý Tài sản Việt Nam và các khoản nợ có vấn đề khác vẫn chưa được phân loại thành nợ xấu - sẽ giảm xuống mức dưới 5% tổng dư nợ của ngân hàng trong năm 2019 và 3% trong năm 2020. Điều này sẽ giúp cho hệ thống ngân hàng trở nên ổn định và hiệu quả hơn”, báo cáo của ADB chỉ rõ.

Trong khi đó, yếu tố rủi ro bên ngoài đối với triển vọng kinh tế của Việt Nam là tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế lớn có thể giảm mạnh hơn, bao gồm Liên minh châu Âu, Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc - các đối tác thương mại chính của Việt Nam. Rủi ro về phía trong nước có thể đến từ tiến độ chậm chạp của quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước. 

Minh Ngọc