Tính đến hết tháng 6/2025, tổng giá trị xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu tỉnh Lào Cai ước đạt gần 900 triệu USD, chỉ bằng 70% so với cùng kỳ 2024 và đạt vẻn vẹn 10% kế hoạch năm. Đây là mức giảm hiếm thấy trong nhiều năm qua đối với một địa phương vốn giữ vai trò là “cửa ngõ giao thương” giữa Việt Nam và khu vực Tây Nam Trung Quốc.
Nguyên nhân lớn nhất được xác định là sự gián đoạn xuất khẩu sầu riêng – loại nông sản từng mang về 1 tỷ USD qua cửa khẩu Kim Thành trong năm 2024, tương đương 40% tổng kim ngạch xuất khẩu tại địa phương.
Từ Tết Nguyên đán đến tháng 4/2025, không một lô sầu riêng nào được thông quan qua Lào Cai. Ông Vương Trinh Quốc – Trưởng Ban Quản lý Khu kinh tế cửa khẩu quốc tế tỉnh Lào Cai – cho biết: "Sầu riêng không đạt chuẩn kiểm định phía Trung Quốc do dư lượng kim loại nặng và chất vàng ô vượt ngưỡng, trong khi công tác kiểm nghiệm nội địa còn yếu kém, dẫn đến mất niềm tin."
![]() |
Xuất nhập khẩu qua Lào Cai giảm 30% |
Mặc dù từ cuối tháng 4, hoạt động xuất khẩu sầu riêng đã được nối lại, với khoảng 15-20 xe/ngày, nhưng thiệt hại trong quý I/2025 không thể bù đắp. Vụ việc không chỉ kéo giảm kim ngạch mà còn đặt ra bài toán về sự cần thiết của chuỗi kiểm soát chất lượng nông sản từ gốc, cũng như khả năng phối hợp liên vùng giữa các tỉnh có vùng trồng với địa phương cửa khẩu.
Bù lại, quả vải thiều đang trở thành điểm sáng trong bức tranh xuất khẩu nông sản qua Lào Cai. Từ đầu vụ đến ngày 22/6, đã có hơn 31.500 tấn vải xuất khẩu, trị giá 18,8 triệu USD. Dự kiến tổng sản lượng vải thiều xuất khẩu qua cửa khẩu quốc tế Kim Thành năm nay sẽ đạt 60.000 tấn, tăng 50% so với năm 2024.
Thành công này có được nhờ sự phối hợp chặt chẽ giữa Bắc Giang – vùng trồng trọng điểm – và Lào Cai – địa phương cửa khẩu. Hệ thống phân luồng riêng cho xe chở trái cây, tăng cường nhân lực kiểm dịch, điều tiết giao thông và triển khai “luồng ưu tiên” thông quan nhanh đã giúp trái vải Việt Nam tiếp cận thị trường Trung Quốc một cách mượt mà, đúng thời điểm.
Sự lao dốc của kim ngạch xuất khẩu trong quý I/2025 là lời cảnh báo nghiêm khắc về sự phụ thuộc vào một vài mặt hàng chủ lực, đồng thời cho thấy tầm quan trọng sống còn của quy trình kiểm định, giám sát chất lượng từ vùng trồng đến cửa khẩu. Trong bối cảnh thị trường Trung Quốc ngày càng siết chặt tiêu chuẩn an toàn thực phẩm, đây là yêu cầu không thể thoả hiệp nếu muốn giữ vững vị thế xuất khẩu.
Bên cạnh đó, hiệu quả từ mô hình phối hợp “liên tỉnh – liên ngành” giữa Lào Cai và các tỉnh trồng vải như Bắc Giang đang mở ra một hướng đi mới: thay vì xử lý sự vụ khi hàng hóa ùn ứ, các địa phương cần hành động từ sớm, đồng bộ từ sản xuất – giám sát – vận chuyển – thông quan. Việc thiết lập “luồng xanh” riêng, số hóa quy trình tại cửa khẩu là giải pháp cần được nhân rộng.
Để hoàn thành mục tiêu xuất khẩu trong nửa cuối năm, Lào Cai không chỉ kỳ vọng vào các loại trái cây như vải, thanh long, chuối... mà còn phải đẩy mạnh xúc tiến thương mại, thúc đẩy nhập khẩu hàng máy móc, điện năng, nông sản chế biến để cân đối cán cân thương mại.
Về dài hạn, tỉnh cần phát triển hạ tầng logistics xuyên biên giới, tăng năng lực thông quan tại cửa khẩu ga đường sắt, chủ động ký kết các thỏa thuận kiểm định song phương, xây dựng chuỗi nông sản “chuẩn hóa” từ gốc nhằm đảm bảo chất lượng bền vững.