Hàng Việt xuất qua Mỹ vẫn qua kênh phân phối truyền thống
Tổng kim ngạch thương mại song phương giữa Việt Nam và Mỹ trong năm 2024 đạt hơn 132 tỷ USD, trong đó xuất khẩu từ Việt Nam sang Mỹ đạt gần 119 tỷ USD, tăng 23,3% so với năm 2023; nhập khẩu từ Mỹ đạt 13 tỷ USD, tăng 7,3%.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, theo báo cáo của Cục Thống kê (Bộ Tài chính), Mỹ tiếp tục giữ vững vị trí là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, với kim ngạch đạt 70,91 tỷ USD.
Tuy nhiên, đằng sau những con số ấn tượng trên là một thực tế đầy thách thức. Phần lớn hàng hóa vẫn được xuất khẩu qua các kênh phân phối truyền thống, chịu nhiều tầng trung gian và chi phí logistics cao.
Trong khi đó, giao dịch qua các nền tảng giao dịch thương mại điện tử B2B - dù là xu hướng chủ đạo của chuỗi cung ứng toàn cầu - hiện vẫn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng giá trị xuất khẩu sang Mỹ.
Đáng lo ngại hơn, theo sắc lệnh mới từ Chính phủ Mỹ, mức thuế đối ứng 20% chính thức áp dụng đối với hàng hóa xuất xứ từ Việt Nam bắt đầu từ ngày 7/8/2025. Điều này không chỉ tạo áp lực về chi phí, mà còn đòi hỏi doanh nghiệp phải nhanh chóng thích ứng với các tiêu chuẩn ngày càng khắt khe, đồng thời chủ động tìm kiếm các kênh tiếp cận thị trường hiệu quả và chính danh hơn.
Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp Việt, đặc biệt khối vừa và nhỏ vẫn gặp khó trong việc đáp ứng các điều kiện để hiện diện bền vững tại thị trường Mỹ. Từ yêu cầu về minh bạch thông tin, truy xuất nguồn gốc, tuân thủ ESG (môi trường, xã hội, quản trị) cho đến chứng nhận tiêu chuẩn quốc tế, tất cả đều là những “cửa ngõ kỹ thuật” bắt buộc.
Nếu không được chuẩn hóa ngay từ đầu, các điều kiện này sẽ trở thành rào cản vô hình khiến doanh nghiệp dù có sản phẩm chất lượng vẫn khó chen chân vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Kỳ vọng đơn hàng quay lại từ quý IV/2025
Tại tọa đàm chuyên đề “VietnamUSA.Arobid.com: Mỹ áp thuế - Việt Nam cần tăng tốc”, với sự tham dự của hơn 150 đại biểu là doanh nghiệp xuất khẩu, tổ chức tài chính, quỹ đầu tư và các hiệp hội ngành hàng, diễn ra mới đây, ông Trần Như Tùng – Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Dệt may – Đầu tư – Thương mại Thành Công (TCM), Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS) – cho biết, quý I/2025, trước khi Mỹ dự tính chính áp thuế đối ứng 46% với hàng dệt may Việt Nam, thị trường vẫn có tín hiệu khả quan. Kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ tăng trưởng ổn định, đơn hàng đều đặn, thậm chí cao hơn mặt bằng chung của toàn ngành.
![]() |
Các diễn giả tại tọa đàm: “VietnamUSA.Arobid.com: Mỹ áp thuế - Việt Nam cần tăng tốc” |
Cụ thể, 6 tháng đầu năm 2025, ngành dệt may Việt Nam xuất khẩu toàn cầu đạt khoảng 21,8 tỷ USD, tăng 13% so với cùng kỳ; riêng thị trường Mỹ đạt khoảng 17,5 tỷ USD, tăng 17,3%.
Nguyên nhân được chỉ ra là do nhiều khách hàng đã “chạy” đơn hàng trước thời điểm áp thuế. Xu hướng này giúp tăng trưởng nửa đầu năm tích cực, nhưng kéo theo hệ quả là quý III/2025 có thể hụt đơn hàng do tồn kho cao và khách hàng tạm ngưng đặt mới để chờ thông tin thuế rõ ràng.
Ông Tùng kỳ vọng, khi mức thuế chính thức được xác lập ở mức 20%, thị trường Mỹ sẽ ổn định trở lại, giúp đơn hàng quay lại từ quý IV/2025, hỗ trợ mục tiêu xuất khẩu 48 tỷ USD của ngành dệt may năm 2025 – tương đương mức tăng khoảng 10%.
Còn theo ông Vũ Bá Phú - Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương), câu chuyện Mỹ áp thuế đối ứng không còn mới. Mỹ nhiều năm nay là đối tác thương mại lớn thứ 2 của Việt Nam, đối tác thương mại quan trọng, phổ hàng hóa Mỹ nhập khẩu rất rộng từ áo, quần 1 USD đến vài trăm USD/cái; các loại trái cây có giá từ thấp đến cao.
Mỹ là thị trường có sức mua cực kỳ lớn, tất cả các nước trên thế giới đều nhìn vào Mỹ như một thị trường tiêu thụ. Dù thuế 20% hay 40% thì chúng ta cũng phải xuất khẩu vào Mỹ, nhưng bằng cách nào có lợi hơn. |
Hàng hóa xuất khẩu vào Mỹ trong 6 tháng đầu năm 2025 tăng mạnh, nên tồn kho cũng lớn. Chúng ta phải xác định trong 6 tháng cuối năm hoặc đến 6 tháng đầu năm 2026 hàng đồ gỗ, dệt may… vào Mỹ sẽ chững lại, có thể không đạt được tốc độ tăng 28% như 6 tháng đầu năm.
Tăng minh bạch và gia tăng giá trị sản phẩm
Theo ông Vũ Bá Phú, thuế 20% là cao hơn trước đối với mặt hàng nông sản nên phải nghĩ đến việc không xuất khẩu thô nữa mà phải chế biến sâu, có giá trị gia tăng cao, đặc biệt là kiểm soát nguồn gốc xuất xứ. Chính phủ ban hành cơ chế chính sách để kiểm soát xuất xứ luồng sản phẩm.
Doanh nghiệp phải nắm rõ trách nhiệm của từng doanh nghiệp, hiệp hội phải giám sát lẫn nhau và giám sát từng thành viên để tránh trình trạng không minh bạch trong xuất xứ hàng hóa.
![]() |
Ông Vũ Bá Phú - Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) |
“Với công cụ như Arobid sẽ tạo luồng thương mại, xuất khẩu rõ ràng minh bạch hơn. Khi tham gia nền tảng này thì sẽ được kiểm chứng, công bố rõ ràng về nguồn gốc xuất xứ hàng hóa. Đây là lợi thế khi doanh nghiệp tham gia vào nền tảng thương mại điện tử. Trước đây doanh nghiệp tham gia vào thị trường Mỹ phải thông qua các nhà mua hàng, còn qua thương mại điện tử B2B thì có thể tiếp cận khách hàng, bằng thương hiệu của mình”, ông Phú nói.
Về phía ngành may mặc, ông Tùng nhấn mạnh 4 thách thức mà doanh nghiệp xuất khẩu sẽ phải đối mặt: Thứ nhất, yêu cầu “xanh” và chứng nhận: Khách hàng hiện yêu cầu nhà máy phải đạt các tiêu chuẩn xanh và chứng nhận quốc tế. Điều này buộc doanh nghiệp phải đầu tư dây chuyền, công nghệ, khiến chi phí tăng trong khi giá bán đầu ra không tăng, làm giảm biên lợi nhuận. Tuy nhiên, đây là yêu cầu bắt buộc nếu muốn duy trì thị phần.
Thứ hai, cạnh tranh quốc tế: Ngoài các nước có chi phí lao động thấp như Bangladesh, Ấn Độ, Indonesia, đối thủ lớn nhất của dệt may Việt Nam vẫn là Trung Quốc – nơi hội tụ đầy đủ lợi thế về quy mô, chuỗi cung ứng khép kín và năng lực sản xuất vượt trội.
Thứ ba, quy tắc xuất xứ và tính thuế. Dệt may Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc. Doanh nghiệp cần biết rõ cách tính thuế giữa trường hợp dùng nguyên liệu nhập khẩu và nguyên liệu sản xuất trong nước. Ví dụ, nếu mua bông từ Mỹ, kéo sợi, dệt vải, may và xuất khẩu từ Việt Nam, tỷ lệ tính thuế sẽ khác so với nhập trực tiếp vải từ Trung Quốc. Khi quy định rõ ràng, đây có thể là cơ hội để thúc đẩy sản xuất nguyên liệu trong nước, giảm phụ thuộc nhập khẩu.
Thứ tư, chuyển đổi số và truy xuất nguồn gốc: Mỹ có khả năng sẽ yêu cầu khai báo chi tiết tỷ lệ nguyên liệu của từng quốc gia trong sản phẩm xuất khẩu. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải sớm triển khai hệ thống quản trị ERP, bảo đảm truy xuất chính xác. Nếu không chứng minh được xuất xứ, hàng hóa có thể bị áp mức thuế cao nhất, gây thiệt hại lớn.
Ông Tùng nhấn mạnh, các doanh nghiệp dệt may phải chủ động chuẩn bị cả về công nghệ quản trị lẫn chiến lược nguyên liệu, để vừa đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe, vừa duy trì biên lợi nhuận trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt. Cần có sự hỗ trợ về vấn đề chuyển đổi số và chuyển đổi xanh.
Với doanh nghiệp lớn, đầu tư ERP 1–2 triệu USD là bình thường, chưa kể các khoản cho năng lượng tái tạo, giảm phát thải… Đây đều là chi phí lớn, nên nếu có sự đồng hành của các tổ chức tài chính với lãi suất thấp, doanh nghiệp sẽ mạnh dạn đầu tư hơn.
Doanh nghiệp Việt cần gì để đi đường dài?
Tại tọa đàm, nhiều doanh nghiệp đã chia sẻ thẳng thắn về rào cản gia nhập chuỗi cung ứng Mỹ: Từ việc không biết bắt đầu hồ sơ ESG từ đâu, thiếu nhân lực vận hành logistics, cho đến chi phí kiểm định sản phẩm quá cao khi tự làm. Những vấn đề này cho thấy nhu cầu rất lớn về một nền tảng có khả năng “đi cùng doanh nghiệp từ đầu đến cuối” - đúng như cam kết “một trạm cho mọi nhu cầu doanh nghiệp cần”.
Trả lời vấn đề này, các chuyên gia và doanh nghiệp đầu ngành đã chỉ ra 3 “nút thắt” lớn mà phần đông doanh nghiệp Việt đang đối mặt: Thiếu công cụ chuẩn hóa ESG, khó tiếp cận vốn để đầu tư vào hạ tầng số, và chi phí logistics xuyên biên giới vẫn còn cao.
Đặc biệt, việc thiếu hệ thống giao thương chính danh khiến nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa phải phụ thuộc vào các khâu trung gian, dẫn đến mất lợi thế về giá, thời gian và quyền kiểm soát thương hiệu tại thị trường Mỹ. |
Đề xuất mô hình giải pháp mới, trong đó nền tảng giao dịch thương mại điện tử B2B quốc tế Việt Nam - Mỹ: VietnamUSA.Arobid.com được xem như một sáng kiến mang tính cộng sinh. Nền tảng không chỉ kết nối giao thương doanh nghiệp – doanh nghiệp, mà còn tích hợp hệ sinh thái tài chính, logistics và công nghệ đánh giá ESG, giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ động từng bước nâng cấp nội lực.
Ông Kris Nguyen - nhà sáng lập Ocean USA, đồng sáng lập nền tảng giao dịch thương mại điện tử B2B quốc tế Việt Nam - Mỹ - nhấn mạnh: “Muốn đi xa ở thị trường Mỹ, doanh nghiệp không thể chỉ nghĩ đến chuyện bán hàng. Họ cần một hệ sinh thái để xây dựng năng lực theo chuẩn toàn cầu, từ hồ sơ ESG, khả năng truy xuất, đến hành lang logistics hiệu quả. Và điều quan trọng nhất: mọi thứ phải được xác thực và minh bạch.
Trong khi đó, ông Martin Doan - Đại diện Liên minh đầu tư AGCG x High West - cho biết, chúng tôi không tìm doanh nghiệp lớn, mà tìm doanh nghiệp chuẩn. Nếu doanh nghiệp Việt chứng minh được năng lực minh bạch, khả năng chuyển đổi số và truy xuất nguồn gốc rõ ràng.