Những câu hỏi ngành điện phải trả lời. Bài III: Việt Nam và thách thức chuyển đổi năng lượng tái tạo

15:04 31/05/2023

Chuyển đổi năng lượng tái tạo đạt mức đã cam kết khi tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26) là một thách thức rất lớn khi phải thay đổi căn bản cơ cấu nền kinh tế, đặc biệt với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam.

Cứ nhìn cách Bộ Công Thương và Tập đoàn Điện lực quốc gia (EVN) đang loay hoay tìm nhiều cách để đưa hơn 4.600 MW điện tái tạo (điện gió và mặt trời) “tồn đọng” lên lưới, mới thấy thách thức trong việc chuyển đổi năng lượng tái tạo ở nước ta khó khăn như thế nào. Trong khi đó Quy hoạch điện VIII đã có với rất nhiều thách thức ở phía trước.

Cam kết COP26 là một bước ngoặt lịch sử

TS Đỗ Nam Thắng, chuyên gia về môi trường và biến đổi khí hậu, Đại học Quốc gia Australia, cho rằng, cam kết này là bước ngoặt lịch sử trong chính sách ứng phó biến đổi khí hậu của Việt Nam, đưa Việt Nam hội nhập cùng khoảng 140 nước trên thế giới thực hiện NetZero vào năm 2050.

Theo số liệu nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB), chỉ tính riêng điện gió ngoài khơi của Việt Nam, công suất tiềm năng đạt khoảng 475 GW. Cũng theo WB, hơn 39% khu vực ở Việt Nam có tốc độ gió lớn hơn 6 mét/giây, tương đương công suất 512 GW. Việt Nam có tiềm năng lớn, với 8,6% diện tích đất, nước thích hợp cho các trang trại điện gió lớn. Một số nghiên cứu của các tổ chức khác, con số này có thể đạt đến hơn 900 GW, với chất lượng gió tốt tập trung ở các vùng Trung bộ, Nam Trung bộ và một phần Duyên hải Bắc bộ. Tiềm năng này lớn hơn cả Indonessia và Philippines.

Dự án điện gió Nam Bình 1 với 9 trụ tua bin đã hoàn thành việc lắp đặt. (Ảnh: TTXVN)
Dự án điện gió Nam Bình 1 với 9 trụ tua bin đã hoàn thành việc lắp đặt. (Ảnh: TTXVN).

Về năng lượng mặt trời, theo bản đồ bức xạ do WB phát triển, tiềm năng của Việt Nam về mặt lý thuyết là rất lớn. Cường độ bức xạ mặt trời dao động từ 897 - 2108 kWh/m2/năm, tương đương 2,46 và 5,77 kWh/m2/ngày (MOIT & AECID, 2015). Cường độ bức xạ cao nhất tập trung ở các tỉnh Tây Nguyên và Nam Trung bộ, Đông Nam bộ như Đắk Lắk, Gia Lai, Nha Trang, Ninh Thuận, Bình Thuận, Tây Ninh và Bình Phước. Qua phân tích kết quả tính toán tiềm năng kỹ thuật của điện mặt tời, tổng diện tích khả dụng là rất lớn, chiếm gần 14% tổng diện tích toàn quốc, với tiềm năng kỹ thuật khả dụng đến 1.677.461MW.

Giá điện tái tạo ngày càng rẻ do công nghệ phát triển rất nhanh, hoàn toàn cạnh tranh tốt với các loại hình phát điện khác, kể cả điện khí. Hiện tại giá công nghệ của năng lượng gió và mặt trời đang ở mức có thể cạnh tranh được với điện khí, dự báo sẽ còn tiếp tục giảm. Yếu tố này là một trong những nguyên nhân khiến nhiều nhà đầu tư các dự án điện tái tạo ở nước ta vừa qua có tranh chấp gay gắt về giá bán điện cho EVN, khi Chính phủ thấy rõ vấn đề này, yêu cầu giá bán điện phải phù hợp với sức mua của người dân, lợi ích phải hài hòa, rủi ro cùng chia sẻ.

Một nghiên cứu gần đây của Đại học Quốc gia Australia cho thấy, Việt Nam có tiềm năng đạt trên 90% tỷ lệ điện từ gió và mặt trời kèm thủy điện tích năng, với chi phí hợp lý.

Việt Nam đã ký cam kết COP26 và rất quyết tâm cao để hiện thực hóa cam kết này, dù phải đối diện với nhiều thách thức, bao gồm thay đổi căn bản cơ cấu nền kinh tế, đặc biệt đối với một quốc gia đang phát triển.

Cần 500 tỷ USD để có nền kinh tế xanh

Việc đưa ra cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 là một quyết định rất khó khăn của Việt Nam. Để đi đến quyết định này không đơn giản, với nhiều cuộc tranh luận rất gay gắt của nhiều bộ ngành liên quan, trước khi ký cam kết lịch sử COP26.

Nhiều ý kiến cho rằng, các nước phát triển cao, hàng trăm năm qua đã thải ra môi trường lượng CO2 khổng lồ, mà hậu quả làm cho tình hình biến đổi khí hậu ngày này tồi tệ đến báo động. Trong khi đó Việt Nam là nước đang phát triển, nếu tham gia công ước này sẽ chịu rất nhiều thiệt thòi, đặc biệt phải thay đổi căn bản nền kinh tế.

Nhưng Việt Nam quyết tâm thực hiện giấc mơ đó và luôn nhấn mạnh việc hợp tác quốc tế có vai trò then chốt để thực hiện cam kết này, đặc biệt về vấn đề đóng góp tài chính và công nghệ của các nước phát triển. Các quốc gia phát thải nhiều khí nhà kính cần phải có trách nhiệm hỗ trợ các nước đang phát triển về tài chính, công nghệ và nâng cao năng lực, chuyển đổi năng lượng phù hợp theo điều kiện của từng quốc gia. Đó là lý do khi gặp gỡ các nhà lãnh đạo nhiều nước phát triển, cũng như tại Hội nghị thượng đỉnh G7 mở rộng hôm 20-5-2023, Thủ tướng Phạm Minh Chính đề xuất các nước G7 và các đối tác góp phần giúp Việt Nam phát huy tiềm năng và lợi thế, trở thành một trung tâm năng lượng tái tạo khu vực.

Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại sự kiện về Sáng kiến Đối tác Cơ sở hạ tầng và đầu tư toàn cầu (PGII), trong khuôn khổ Hội nghị thượng đỉnh G7 mở rộng. Ảnh: TTXVN.
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại sự kiện về Sáng kiến Đối tác Cơ sở hạ tầng và đầu tư toàn cầu (PGII), trong khuôn khổ Hội nghị thượng đỉnh G7 mở rộng. Ảnh: TTXVN..

Tại Hội thảo Quốc tế về Chuyển đổi Năng lượng Công bằng và Mục tiêu Phát triển Bền vững Toàn cầu diễn ra ngày vào 26-5-2023 tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam- Đỗ Hùng Việt phát biểu, bày tỏ lo ngại trước các tác động gia tăng của biến đổi khí hậu ở quy mô toàn cầu cũng như ở Việt Nam, từ đó khẳng định chủ trương nhất quán và xuyên suốt của Việt Nam là quyết tâm ứng phó với biến đổi khí hậu và xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và thân thiện với môi trường.

Thứ trưởng Đỗ Hùng Việt thông tin: Theo báo cáo của WB năm 2022, nếu không có biện pháp thích ứng và giảm thiểu phù hợp, vào năm 2050, GDP mỗi năm của Việt Nam có thể giảm 12-14,5% do tác động của biến đổi khí hậu. Thứ trưởng Việt đề cao các cam kết mạnh mẽ của Việt Nam tại Hội nghị COP26 và quyết định tham gia JETP với một số nước G7 và đối tác quốc tế khác, nhằm vừa phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong nước, vừa chung tay cùng cộng đồng quốc tế ứng phó với biến đổi khí hậu.

Thứ trưởng Việt nhấn mạnh: Quá trình chuyển đổi năng lượng tại Việt Nam sẽ đòi hỏi một nguồn kinh phí lớn và dài hạn. Nhu cầu về vốn cho quá trình chuyển đổi năng lượng ở Việt Nam là rất lớn. Đến năm 2030, Việt Nam cần khoảng 135 tỷ USD và vào năm 2050 là hơn 500 tỷ USD.

Theo Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 vừa được Thủ tướng phê duyệt, Việt Nam đặt mục tiêu có 40% lượng điện tiêu thụ đến từ năng lượng tái tạo và tăng lên 70% vào năm 2050. Đó là thách thức rất lớn trong việc chuyển đổi năng lượng tái tạo ở nước ta.

Chuyển đổi xanh còn quá chậm

Lợi ích của quá trình chuyển đổi năng lượng xanh là quá rõ ràng, đặc biệt đối với quốc gia như Việt Nam đang phải chịu nhiều ảnh hưởng nhất của thực trạng biến đổi khí hậu đang diễn ra rất nhanh như hiện nay. Chuyển đổi năng lượng xanh cũng mở ra một con đường dẫn đến mô hình phát triển mới cho Việt Nam. Có cơ hội để xây dựng một nền kinh tế vững chắc hơn, không bị phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch. Quá trình chuyển đổi năng lượng sẽ giúp tạo ra nhiều việc làm mới cho nền kinh tế xanh.

Nhưng có lẽ mọi phương diện chúng ta chuyển đổi quá chậm, trừ việc ký kết cam kết COP26. Hãy nhìn Quy hoạch điện VII thì biết, dù đã có điều chỉnh quy hoạch từ đầu năm 2016, vẫn xem điện than là nguồn cung ứng điện lớn nhất, khi xác định đến năm 2030, tổng công suất khoảng 55.300 MW, sản xuất khoảng 304 tỷ kWh, chiếm khoảng 53,2% điện sản xuất, tiêu thụ. Để đạt mục tiêu này, sẽ phải xây dựng thêm khoảng 30.000 MW nhiệt điện than, tương đương khoảng 25 nhà máy vào năm 2030. Đó là lý do có năm Việt Nam đưa vào sử dụng 2 nhà máy điện than.

Kinh nghiệm của Ba Lan - quốc gia xuất khẩu than và có nhiều nhà máy điện than nhất châu Âu cho thấy, Ba Lan chính là quốc gia ô nhiễm cao nhất châu lục này. Trong khi đó nhiều nước châu Âu như Na Uy, Phần Lan, Đan Mạch, Đức… phát triển tốt điện tái tạo thành công, đến nỗi giá điện vừa qua đạt mức âm, dù cuộc xung đột quân sự Nga - Ucraina làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn cung năng lượng cho châu Âu.

Ngay cả vấn đề rất quan trọng là truyền tải cũng đã điều chỉnh trong Quy hoạch điện VII: “Xây dựng và nâng cấp lưới điện, từng bước đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật của lưới điện truyền tải; đến năm 2020, lưới điện truyền tải đạt tiêu chuẩn độ tin cậy N-1 cho các thiết bị chính và bảo đảm đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng theo quy định… Ứng dụng công nghệ lưới điện thông minh trong truyền tải điện”.

Quy hoạch là vậy, nhưng vì sao ngay trong thời điểm tháng 5-2023, truyền tải vẫn không theo kịp tốc độ phát triển nguồn cung ứng điện, nhất là điện tái tạo, khi rất khó khăn để hòa lưới điện quốc gia hơn 4.600 MW điện sạch của các nhà đầu tư đã sẵn sàng phát điện thương mại? Vì vậy, yêu cầu lớn nhất của ngành truyền tải là phát triển lưới điện truyền tải đồng bộ để đón nhận công suất của các trung tâm năng lượng tái tạo trong tương lai.

Khó khăn lớn nhất ngoài vấn đề kỹ thuật truyền tải, còn là các vấn đề về pháp lý, khi có đến 40 chủ đầu tư điện sạch sẵn sàng phát thương mại lên lưới còn thiếu nhiều thủ tục, hồ sơ, bao gồn cả thiếu giấy phép hoạt động điện lực, thì ai phải chịu trách nhiệm?

Những câu hỏi này ngành điện lực phải trả lời.

Cả nước đang bắt đầu vào mùa nắng nóng, cả nước đang thiếu điện nghiêm trọng, phải nhập khẩu nhưng nền kinh tế vẫn đứng trước thách thức lớn về nguồn điện cho sản xuất và sinh hoạt. Mới chỉ hơn 4.600 MW điện sạch “tồn đọng” mà chưa thể giải quyết được thì với Quy hoạch điện VIII mà Chính phủ vừa ban hành, yêu cầu ưu tiên phát triển mạnh các nguồn năng lượng tái tạo, với công suất rất lớn, liệu ngành điện có đáp ứng được yêu cầu rất cao này?

Ưu tiên phát triển nguồn năng lượng tái tạo

Theo Quyết định số 500 của Thủ tướng về phê duyệt quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện 8), ưu tiên phát triển mạnh các nguồn năng lượng tái tạo, đạt tỉ lệ khoảng 30,9 - 39,2% vào năm 2030.

Mục tiêu là hướng tới đạt tỉ lệ năng lượng tái tạo 47% theo cam kết về chuyển đổi năng lượng công bằng với Việt Nam (JETP). Định hướng đến năm 2050, tỉ lệ năng lượng tái tạo lên đến 67,5 - 71,5%.

Việt Nam phấn đấu đến năm 2030 có 50% các tòa nhà công sở và 50% nhà dân sử dụng điện mặt trời mái nhà tự sản, tự tiêu (phục vụ tiêu thụ tại chỗ, không bán điện vào hệ thống điện quốc gia).

Việc định hướng phát triển nguồn năng lượng tái tạo nhằm giúp kiểm soát mức phát thải khí nhà kính từ sản xuất điện đạt khoảng 204-254 triệu tấn năm 2030 và còn khoảng 27-31 triệu tấn vào năm 2050.

Kết quả này nhằm hướng tới đạt mức phát thải đỉnh không quá 170 triệu tấn vào năm 2030 với điều kiện các cam kết theo JETP.

Để thực hiện nguồn và lưới điện, giai đoạn 2021-2030 ước tính tổng vốn đầu tư phát triển nguồn và lưới điện truyền tải tương đương 134,7 tỉ USD và tăng lên 399,2 - 523,1 tỉ USD cho giai đoạn 2031-2050.

Phát triển các nguồn điện từ năng lượng tái tạo và sản xuất năng lượng mới phục vụ xuất khẩu. Phấn đấu đến năm 2030, quy mô công suất xuất khẩu điện đạt khoảng 5.000 - 10.000MW.

Lưu Vĩnh Hy