![]() |
| Vì sao tỷ lệ tiếp cận chuyển đổi số tại hợp tác xã nông nghiệp còn thấp? |
Hiện nay, cả nước có hơn 22.500 HTX nông nghiệp đang hoạt động. Dù nhu cầu chuyển đổi số là rất cấp thiết, nhưng theo thống kê, chỉ khoảng 15% cán bộ HTX biết sử dụng phần mềm quản lý, và chưa đến 10% HTX có nhân sự phụ trách công nghệ thông tin.
Một trong những trở ngại lớn nhất được các HTX nhấn mạnh là chi phí đầu tư.
Bà Mai Thị Thùy Trang – Giám đốc HTX Tài Thịnh Phát Farm (Cà Mau) – cho biết: các phần mềm quản lý kho, thành viên mang lại hiệu quả rõ rệt, tuy nhiên chi phí cho một bộ giải pháp cơ bản có thể lên đến hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu đồng – vượt quá khả năng tài chính của HTX. Ngoài ra, các chi phí đi kèm như bảo trì, nâng cấp phần mềm cũng tạo thêm áp lực tài chính.
Không chỉ thiếu hạ tầng, các HTX còn gặp khó ở khía cạnh nhân sự và thị trường.
Bà Trần Thị Thu Lan – Giám đốc HTX sản xuất dịch vụ nông sản Bản Quyền (Lạng Sơn) – cho biết: việc chuyển đổi số là cơ hội lớn để đồng bào vùng cao quảng bá sản phẩm nông nghiệp đến thị trường rộng lớn. Tuy nhiên, nhân lực yếu, thiếu kỹ năng marketing số và thiếu thông tin thị trường đang khiến nhiều HTX loay hoay trong việc triển khai.
Các rào cản phổ biến hiện nay gồm: Hạ tầng viễn thông tại vùng sâu, vùng xa chưa đồng đều, kết nối Internet không ổn định; Thiếu nền tảng dùng chung, dữ liệu không được liên thông khiến việc số hóa bị rời rạc; Nhận thức về chuyển đổi số còn hạn chế: nhiều HTX coi đây là tiêu chí hình thức, chưa xem như một chiến lược phát triển dài hạn; Thiếu nguồn vốn đầu tư ban đầu và khó tiếp cận nguồn tín dụng ưu đãi.
Theo PGS.TS Đào Thế Anh – Chủ tịch Hội Khoa học phát triển nông thôn Việt Nam: điểm nghẽn lớn của HTX hiện nay không nằm ở sản xuất, mà ở khả năng tiếp cận thị trường do thiếu nền tảng công nghệ. Vì vậy, cần có những chính sách hỗ trợ thiết thực:
Thiết lập Quỹ tín dụng chuyển đổi số dành riêng cho HTX, hỗ trợ vay vốn ưu đãi hoặc chi trả chi phí phần mềm dạng thuê bao để giảm áp lực đầu tư ban đầu.
Xây dựng nền tảng số dùng chung cho HTX và kinh tế tập thể, tích hợp quản lý vùng trồng, truy xuất nguồn gốc, hợp đồng điện tử, logistics, dữ liệu sản xuất… Dự kiến nền tảng này sẽ hoàn thiện và đưa vào vận hành từ tháng 6/2026, theo kế hoạch của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Đào tạo, tập huấn kỹ năng số cho cán bộ HTX, phát triển nhân lực tại chỗ.
Ông Lê Đức Thịnh – Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn – nhận định: tốc độ chuyển đổi số của khu vực kinh tế hợp tác tại Việt Nam hiện chậm hơn so với nhiều nước trong khu vực, như Trung Quốc, Thái Lan. Trong khi đó, tiềm năng nông nghiệp công nghệ cao tại Việt Nam là rất lớn nếu được đồng bộ hóa về chính sách và hạ tầng.
Bà Cao Xuân Thu Vân – Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam – kiến nghị cần bổ sung các gói tín dụng ưu đãi, hỗ trợ kỹ thuật, xây dựng chuỗi giá trị thông minh, đồng thời khuyến khích doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào mô hình nông nghiệp công nghệ cao và kinh tế hợp tác hiện đại.
Chuyển đổi số trong khu vực HTX không chỉ là yêu cầu tất yếu, mà còn là chìa khóa giúp nâng cao hiệu quả sản xuất và khả năng cạnh tranh cho nông sản Việt Nam. Để thực hiện được điều này, cần một hệ sinh thái phối hợp giữa Nhà nước – doanh nghiệp công nghệ – tổ chức tài chính – và bản thân các HTX, cùng hướng đến mục tiêu số hóa toàn diện, bền vững và phù hợp với điều kiện thực tế nông thôn.
Thực tiễn triển khai chuyển đổi số trong khu vực HTX cũng mở ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp công nghệ, đặc biệt là các đơn vị chuyên cung cấp giải pháp quản lý, nền tảng thương mại số, và dịch vụ đào tạo kỹ năng số cho nông thôn. Bên cạnh đó, đây cũng là thị trường tiềm năng cho các nhà đầu tư có tầm nhìn dài hạn vào lĩnh vực nông nghiệp thông minh, sản xuất theo chuỗi giá trị và các mô hình kinh tế hợp tác số hóa.