Tại Việt Nam, với “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” do Thủ tướng phê duyệt ngày 03/6/2020 (Quyết định số 749/QĐ-TTg), đổi mới và công nghệ đã trở thành một ưu tiên của Chính phủ và các bộ, ngành trong những năm gần đây. Chuyển đổi số tác động sâu rộng, bao trùm lên tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế - xã hội, góp phần tăng năng suất lao động, chuyển đổi mô hình hoạt động, kinh doanh theo hướng đổi mới sáng tạo, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia.
Bên cạnh đó, đổi mới và công nghệ vẫn thường được coi là lĩnh vực mà nam giới có ưu thế. Những năm gần đây, phụ nữ đang từng bước tạo dựng những lợi thế nhất định trong công nghệ, với cơ hội việc làm rộng mở.
Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), lao động nữ chiếm khoảng 37% lực lượng lao động trong lĩnh vực công nghệ tại Việt Nam, cao hơn so với thế giới (25%). Sự đa dạng về giới tính cũng là yếu tố được các hãng công nghệ tại Việt Nam quan tâm nhằm giúp họ tạo ra những sản phẩm tốt, an toàn và phù hợp với đại đa số người dùng.
Tuy nhiên, đa phần phụ nữ làm việc trong lĩnh vực công nghệ vẫn chủ yếu đảm nhiệm các vị trí khác như thử nghiệm, marketing, bán hàng, hành chính và nhẫn sự, hơn là các vai trò kỹ thuật như nhân viên phát triển phần mềm.
Có nhiều lý do dẫn đến việc tỉ lệ phụ nữ làm việc trong lĩnh vực này còn hạn chế, như còn thiếu các chính sách và chương trình thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực công nghệ và vẫn còn nhiều định kiến giới về phụ nữ và công nghệ.
Làm thế nào để phá bỏ rào cản và trao quyền cho phụ nữ một cách toàn diện cũng là thách thức đối với nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ tại Việt Nam hiện nay.
Phát biểu khai mạc buổi Đối thoại chính sách “Bình đẳng giới trong chuyển đổi số ở Việt Nam: Cơ hội và thách thức”, sáng 3/3, bà Nguyễn Thị Hà, Thứ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội khẳng định: Nhận thức rõ các vấn đề giới nảy sinh trong bối cảnh chuyển đổi số sẽ giúp các cơ quan chức năng liên quan hoàn thiện khung khổ chính sách, pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi để phụ nữ và trẻ em gái có cơ hội tham gia nhiều hơn vào lĩnh vực này.
Do đó, việc nâng cao nhận thức về các cơ hội giáo dục và xoá bỏ khuôn mẫu giới trong chương trình giảng dạy, định hướng nghề nghiệp, đặc biệt là trong đào tạo các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM) được xem là chìa khoá để thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ vào chuyển đổi số.
“Thay đổi các kỳ vọng về khuôn mẫu giới trong nghề nghiệp, bao gồm cả việc thúc đẩy các hình mẫu phụ nữ tham gia trong lĩnh vực công nghệ thông tin, chuyển đổi số cũng sẽ tạo lực đẩy thôi thúc sự tự tin của phụ nữ trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Trang bị cho phụ nữ các kỹ năng và hỗ trợ họ chuyển đổi sang các hình thức việc làm liên quan đến kỹ thuật số là rất quan trọng để đảm bảo rằng phụ nữ không bị bỏ lại phía sau", bà Hà nói.
Bà Pauline Tamaris, Điều phối viên thường trú của Liên Hợp Quốc tại Việt Nam cho biết: Chủ đề ưu tiên của Ngày Quốc tế phụ nữ năm nay mang đến cơ hội để cùng xem xét lại các tác động về giới trong đổi mới và công nghệ, đồng thời xác định các khuyến nghị đề quá trinh chuyển đổi kỹ thuật số ở Việt Nam bao trùm và bình đẳng hơn. Trong bối cảnh đó, cần đảm bảo quan điểm giới trong các chính sách quốc gia về kỹ thuật và phân bổ nguồn lực để thực hiện đầy đủ; tăng cường giáo dục có chất lượng cho phụ nữ và trẻ em gái; dự đoán nhu cầu công việc và kỹ năng cần có trong tương lai cũng như tăng cường thu thập dữ liệu và giải quyết bạo lực trên cơ sở giới trực tuyến.
Chia sẻ tại buổi đối thoại, bà Trần thị Hồng Lan, Phó Cục trưởng Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ cho rằng, Điều 15, Luật Bình Đẳng giới đã quy định: Nam, nữ bình đẳng trong việc tiếp cận, ứng dụng khoa học và công nghệ; các khoá đào tạo về khoa học và công nghệ, phổ biến kết quả nghiên cứu khoa học, công nghệ và phát minh, sáng chế.
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 28/NQ-CP về chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030. Tuy nhiên, hoạt động trên lĩnh vực khoa học công nghệ của phụ nữ còn gặp nhiều thách thức từ đặc thù và định kiến. Đó là, hiện chưa có chính sách ưu đãi, riêng biệt dành cho cán bộ nữ trong hoạt động khoa học công nghệ,.Quá trình xây dựng, tổ chức thực hiện các chính sách này chưa tính đến đặc thù, những khó khăn, thách thức đối với phụ nữ trong hoạt động khoa học công nghệ liên quan đến độ trễ, đòi hỏi sự say mê, kiên trì…Cùng với đó là những thách thức từ định kiến, nhận thức của xã hội và những quan niệm truyền thống tác động trực tiếp đến cán bộ khoa học nữ.
“Quy định phụ nữ nghỉ hưu sớm hơn nam giới 5 năm cũng là một yếu tố tác động tới quá trình nghiên cứu khoa học của phụ nữ, trong khi hoạt động nghiên cứu là công việc có thể gắn bỏ suốt đối với người làm khoa học. Đó là chưa kể tới những thách thức từ cá nhân và gia đình”, bà Lan nói.
Trước thực trạng này, Phó Cục trưởng Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ khuyến nghị, cần tăng cường nhận thức của xã hội trước hết là về vai trò của phụ nữ nói chung, của đội ngũ cán bộ khoa học nữ nói riêng.Đồng thời, cần thay đổi nhận thức của cộng đồng về việc nâng cao nhận thức bình đẳng giới đối với quần chúng và thay đổi nhận thức của phụ nữ hoạt động trên lĩnh vực khoa học công nghệ.
Hoài Anh