Phát biểu tại Diễn đàn xúc tiến thương mại giữa doanh nghiệp Việt Nam - Trung Quốc, chiều ngày 12/11, ông Lê Thanh Hòa - Phó Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) nhấn mạnh: Quan hệ thương mại Việt Nam – Trung Quốc đang phát triển sâu rộng. Năm 2024, kim ngạch thương mại hai nước đạt hơn 205 tỷ USD, tăng gần 20% so với năm 2023; tính đến hết tháng 10/2025 đã đạt 208 tỷ USD.
Riêng nông nghiệp, năm 2024, kim ngạch xuất nhập khẩu nông, lâm, thủy sản giữa hai nước đạt 17,8 tỷ USD, trong đó, xuất khẩu của Việt Nam đạt 13,5 tỷ USD. Nhiều mặt hàng chủ lực như trái cây, thủy sản, gạo, cà phê, hồ tiêu, cao su, đặc biệt là sầu riêng, đã thâm nhập sâu vào hệ thống phân phối tại Trung Quốc, từ siêu thị, chợ đầu mối đến các nền tảng thương mại điện tử.
Ở chiều ngược lại, các doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu máy móc, thiết bị, vật tư nông nghiệp từ Trung Quốc. Đồng thời tiếp nhận nhiều cơ hội hợp tác về chế biến, bảo quản và chuyển giao công nghệ nông nghiệp thông minh.
![]() |
| Diễn đàn xúc tiến thương mại giữa doanh nghiệp Việt Nam - Trung Quốc. |
Dù đạt nhiều kết quả tích cực, song ông Hòa cũng chỉ rõ một số thách thức đang cản trở sự phát triển của chuỗi giá trị nông sản Việt – Trung như: Hạ tầng logistics và kho lạnh biên giới chưa đồng bộ; Quy mô sản xuất nhỏ lẻ, thiếu liên kết vùng nguyên liệu; Năng lực kiểm dịch, kiểm soát chất lượng chưa đồng đều giữa các địa phương; Việc chia sẻ dữ liệu chuỗi cung ứng giữa các doanh nghiệp còn hạn chế. Những yếu tố này làm tăng chi phí vận chuyển, kéo dài thời gian lưu thông và làm giảm khả năng cạnh tranh.
Để nâng cao hiệu quả thương mại nông sản Việt – Trung trong thời gian tới, ông Lê Thanh Hòa đề xuất cần tăng cường xúc tiến thương mại, quảng bá nông sản và kết nối doanh nghiệp hai nước; Mở rộng hợp tác kiểm dịch và an toàn sinh học, kiểm soát lưu thông hàng hóa tại biên giới theo chuẩn quốc tế; Liên kết đầu tư chuỗi giá trị, tập trung vào chế biến sâu, logistics lạnh, thương mại điện tử và tiêu chuẩn hóa vùng nguyên liệu.
Từ góc nhìn doanh nghiệp, bà Tề Bình - Tổng Giám đốc Sunwah Gelafood (Trung Quốc) đánh giá cao tiềm năng của nông sản Việt Nam, đồng thời nhấn mạnh, hàng hóa Việt phù hợp thị hiếu người tiêu dùng Trung Quốc cả về chất lượng và tính đa dạng.
Nông sản Việt hiện xuất hiện rộng rãi trên hệ thống siêu thị lớn, chợ đầu mối thực phẩm tươi sống, sàn thương mại điện tử và cả xu hướng mua sắm mới như “mua theo nhóm cộng đồng” tại Trung Quốc. Đây đang là "thị trường vàng" cho nông sản Việt Nam.
Bà Tề Bình cũng cho biết hạ tầng vận tải đường bộ và đường sắt giữa hai nước đang được cải thiện mạnh mẽ, giúp rút ngắn thời gian vận chuyển và giảm chi phí logistics. Những sản phẩm như sầu riêng, tổ yến, quả sấy và nông sản chế biến sâu đang tăng trưởng nhanh nhờ phù hợp với xu hướng tiêu dùng của giới trẻ Trung Quốc.
Ông Hoàng Liên Sơn - Trưởng phòng Tư vấn khởi nghiệp và phát triển thị trường, Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho rằng, liên kết đầu tư chuỗi giá trị nông sản, hình thành trung tâm phân phối và khu chế biến tại biên giới là hướng đi mang tính đột phá.
"Hai nước cần tăng cường trao đổi thông tin và hợp tác chuyên môn về chính sách, quy định kỹ thuật, kiểm dịch và an toàn sinh học, phối hợp kiểm soát lưu thông hàng hóa biên giới theo chuẩn quốc tế. Đồng thời, thúc đẩy liên kết đầu tư chuỗi giá trị, tập trung vào chế biến sâu, logistics lạnh, thương mại điện tử, tiêu chuẩn hóa nguyên liệu, hình thành trung tâm phân phối và khu chế biến liên kết tại biên giới", ông Sơn đề nghị.
Tại diễn đàn, doanh nghiệp hai nước trao đổi sâu về hợp tác: đầu tư dây chuyền chế biến sâu; logistics lạnh phục vụ vận chuyển nông sản tươi; ứng dụng máy bay không người lái (drone) trong sản xuất; tiêu chuẩn hóa và đồng bộ dữ liệu truy xuất nguồn gốc. Những công nghệ này được kỳ vọng giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất và đảm bảo chất lượng nông sản.
Với thị trường hơn 100 triệu dân của Việt Nam và 1,4 tỷ dân của Trung Quốc, nhu cầu tiêu thụ nông sản tại khu vực rất lớn. Vì vậy, sự kiện lần này không chỉ giúp doanh nghiệp hai nước tìm kiếm đối tác và cơ hội đầu tư, mà còn định hình mô hình hợp tác mới: cùng phát triển vùng nguyên liệu – cùng tiêu chuẩn hóa chất lượng – cùng xây dựng thương hiệu.