Một trong những nhiệm vụ và giải pháp then chốt được nêu trong Nghị quyết 68 là đẩy mạnh và đa dạng hóa nguồn vốn cho khu vực kinh tế tư nhân. Trong đó, kênh phát hành trái phiếu doanh nghiệp cũng được đặt ra với mục tiêu mở rộng các kênh huy động vốn ổn định và chi phí thấp cho khu vực tư nhân – từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong những năm tới.
Tại tọa đàm “Thị trường vốn nợ Việt Nam 2025: Nguồn vốn cho khu vực tư nhân trong kỷ nguyên tăng trưởng mới”, được FiinRatings - đối tác chiến lược của S&P Global, phối hợp cùng Quỹ Bảo lãnh tín dụng và đầu tư (CGIF) - quỹ tín thác thuộc Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) tổ chức vào ngày 22/8/2025, tại TP. Hồ Chí Minh, các chuyên gia nhận định, Quốc hội và Chính phủ đã thể hiện quyết tâm thực thi Nghị quyết 68 thông qua ban hành Nghị quyết số 198/2024/QH15 và Nghị quyết số 138/NQ-CP, với hàng loạt chính sách cụ thể nhằm hoàn thiện thể chế và cơ chế huy động nguồn lực cho kinh tế tư nhân.
![]() |
Chuyên gia trình bày tham luận tại tọa đàm. Ảnh: LA. |
Đặt trong bối cảnh trên, những thay đổi chính sách gần đây đã mở ra tín hiệu tích cực, bao gồm: yêu cầu minh bạch thông tin, bắt buộc xếp hạng tín nhiệm theo Luật Chứng khoán sửa đổi (2024), và quy định hạn chế phát hành riêng lẻ với doanh nghiệp có tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao theo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (2025).
Những cải cách này đang tạo tiền đề cho sự phục hồi kênh chào bán ra công chúng – một động lực được kỳ vọng sẽ giúp thị trường vốn nợ phát triển lành mạnh hơn trong thời gian tới.
Thực tế, doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt khu vực tư nhân, vẫn phụ thuộc lớn vào tín dụng ngân hàng. Trong nửa đầu năm 2025, tăng trưởng tín dụng đạt 8,3% so với đầu năm và tăng 18,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong khi thị trường trái phiếu doanh nghiệp phục hồi nhưng còn quá nhỏ.
Đáng chú ý, 83% giá trị phát hành trái phiếu doanh nghiệp trong nửa đầu năm 2025 vẫn do các ngân hàng thương mại huy động, trong khi doanh nghiệp phi tài chính (nhóm đối tượng cũng có nhu cầu vốn trung và dài hạn lớn) chưa khai thác hiệu quả kênh này. Điều này tiếp tục tạo áp lực lớn lên hệ thống ngân hàng và cho thấy vai trò của thị trường vốn nợ trong cung ứng vốn dài hạn cho khu vực tư nhân còn hạn chế.
Quy mô thị trường trái phiếu chỉ khoảng 10,8% GDP
Ông Đỗ Ngọc Quỳnh - Phó Chủ tịch FiinRatings, Tổng Thư ký Hiệp hội thị trường trái phiếu Việt Nam (VBMA) - cho biết hiện quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp của Việt Nam mới đạt khoảng 1,25 triệu tỷ đồng, tương đương 10,8% GDP năm 2024, còn cách xa mục tiêu 25% GDP vào năm 2030.
Trong khi đó, tỷ lệ này tại nhiều nền kinh tế phát triển ở châu Á như Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia dao động từ 30–40% GDP, thậm chí vượt 100% tại Mỹ và Nhật Bản.
Theo ông Quỳnh, để thị trường trái phiếu doanh nghiệp nói riêng và thị trường vốn nợ nói chung thực sự đóng vai trò động lực tăng trưởng, Việt Nam cần có các giải pháp đồng bộ, tập trung 03 trụ cột: Hoàn thiện chính sách; tăng cường minh bạch; đa dạng hóa mô hình và công cụ vốn.
Bên cạnh sản phẩm truyền thống, cần phát triển thêm các quỹ đầu tư và mô hình bảo lãnh tín dụng – như CGIF đang thực hiện – để hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là khối tư nhân, tiếp cận thị trường hiệu quả hơn. Đây cũng là cách để giảm chi phí vốn và mở rộng tệp nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Về định hướng phát triển thị trường vốn, ông Bùi Hoàng Hải - Phó Chủ tịch Ủy Ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) - cho biết với định hướng phát triển thị trường vốn và thị trường chứng khoán, UBCKNN đang thực hiện loạt giải pháp đồng bộ để phát triển thị trường vốn minh bạch, hiệu quả.
Trong đó, trái phiếu doanh nghiệp là trọng tâm chính sách với các định hướng cụ thể là phát triển minh bạch, đa dạng sản phẩm, bảo vệ nhà đầu tư.
![]() |
Ông Bùi Hoàng Hải - Phó Chủ tịch Ủy Ban Chứng khoán Nhà nước - phát biểu tại tọa đàm “Thị trường vốn nợ Việt Nam 2025". Ảnh: Ái Linh. |
Mở rộng nhà đầu tư tổ chức dài hạn, điều chỉnh quy định phân bổ tài sản; Khuyến khích phát hành trái phiếu xanh, trái phiếu gắn với dự án đầu tư ưu tiên.
Hoàn thiện khung pháp lý, cả với chào bán riêng lẻ và ra công chúng; Tăng cường xếp hạng tín nhiệm và khuyến khích bảo lãnh tín dụng nhằm nâng cao độ tin cậy thị trường.
“Thị trường vốn nợ Việt Nam, trong đó có thị trường trái phiếu doanh nghiệp còn nhiều dư địa để phát triển. Tuy nhiên, để thị trường trái phiếu doanh nghiệp vận hành hiệu quả, theo ông Hải, các công ty đại chúng cần nâng cao quản trị doanh nghiệp, minh bạch và trách nhiệm với cổ đông, nhà đầu tư.
Đối với nhà đầu tư, cần đầu tư chuyên nghiệp, có chiến lược dài hạn, đánh giá rủi ro – lợi ích một cách đầy đủ.
Đối với các định chế trung gian, nâng cao năng lực tư vấn, phân phối và giám sát; đảm bảo hoạt động trung gian minh bạch và chuyên nghiệp.
Còn đối với các tổ chức xếp hạng tín nhiệm, tổ chức bảo lãnh trái phiếu: tiếp tục phát triển dịch vụ chất lượng cao, tạo niềm tin cho thị trường.
"Cẩm nang" khơi vốn từ thị trường vốn nợ
Theo chuyên gia FiinRatings, ông Lê Hồng Khang - Giám đốc Phân tích FiinRatings - "cẩm nang" khơi vốn từ thị trường vốn nợ cho nhà đầu tư và tổ chức phát hành, gồm:
Xây dựng hồ sơ đáp ứng yêu cầu thị trường vốn: Tăng cường minh bạch trong báo cáo và truyền tải chiến lược kinh doanh dài hạn, rõ ràng nhằm thu hút và tạo niềm tin với các nhà đầu tư tổ chức.
Đánh giá chất lượng dòng tiền, không chỉ EBITDA (lợi nhuận trước lãi vay, thuế, khấu hao và phân bổ tài sản): Trong bối cảnh lãi suất gia tăng, dòng tiền hoạt động giữ vai trò then chốt. Doanh nghiệp có thể trả nợ từ dòng tiền thực tạo ra, hay vẫn phụ thuộc vào việc tái cấp vốn liên tục?
Đa dạng hóa nguồn vốn: Giảm sự phụ thuộc quá mức vào tín dụng ngân hàng. Xem xét phát hành trái phiếu hạ tầng, trái phiếu xanh và các công cụ nợ dài hạn khác nhằm phù hợp với vòng đời tài sản cũng như giảm thiểu rủi ro trên bảng cân đối kế toán.
Phân tách giữa tăng trưởng chu kỳ và tăng trưởng mang tính cấu trúc: Xác định các doanh nghiệp hưởng lợi từ những động lực dài hạn (ví dụ: dịch chuyển chuỗi cung ứng, chuyển dịch sang năng lượng xanh) so với các doanh nghiệp chịu tác động từ rủi ro chu kỳ ngắn hạn.
Tận dụng mô hình đối tác công – tư (PPP): Với các dự án quy mô lớn, khai thác lợi thế nhằm giảm rủi ro từ sự tham gia ban đầu của doanh nghiệp nhà nước, đồng thời định vị doanh nghiệp tư nhân như đối tác hiệu quả trong quá trình triển khai và vận hành.
Đánh giá kỹ lưỡng năng lực quản trị và tính minh bạch: Trong một thị trường đang tái lập niềm tin, quản trị doanh nghiệp vững chắc và công bố thông tin minh bạch không còn là yếu tố tùy chọn, mà là chỉ dấu thiết yếu phản ánh chất lượng tín dụng và năng lực quản trị rủi ro.