Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của mình phải thiết lập cơ chế để lắng nghe, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp (DN); cơ quan có thẩm quyền phải giải quyết, trả lời ý kiến của DN, doanh nhân trong vòng 2 tuần.
![]() |
Một doanh nghiệp chế biến lâm sản ( thuộc loại vừa và nhỏ) tại huyện Như Xuân - Thanh Hóa |
Đón nhận những thông tin này, các DN, doanh nhân, cơ quan có chức năng đại diện và bảo vệ quyền lợi cho DN tại Thanh Hóa đều tỏ ra vui mừng, phấn khởi, hy vọng Nghị quyết số 68-NQ/TW sẽ thực sự “cởi trói” cho kinh tế tư nhân, tạo điều kiện cho DN phát triển lành mạnh, bền vững.
Trao đổi với phóng viên Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập, ông Trịnh Xuân Trường - Phó Giám đốc Công ty CP công nghệ Việt Đức - cho biết: Là một trong những thành viên điều hành DN nhỏ, ông rất quan tâm đến nội dung trong Nghị quyết số 68 –NQ/TW về hoạt động cho vay vốn, bao gồm các chính sách hỗ trợ DN như rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách tín dụng cho kinh tế tư nhân. Ưu tiên một phần nguồn tín dụng thương mại dành cho DN tư nhân, nhất là DN nhỏ và vừa, DN khởi nghiệp sáng tạo vay vốn để đầu tư máy móc, thiết bị công nghệ mới, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số; rà soát khuôn khổ pháp lý, hoàn thiện các mô hình quỹ bảo lãnh tín dụng cho DN nhỏ và vừa cả trung ương và địa phương.
![]() |
Ông Trịnh Xuân Trường - Phó Giám đốc Công ty CP công nghệ Việt Đức |
Khuyến khích sự tham gia của các tổ chức tài chính, DN lớn bảo lãnh cho các khoản vay của DN nhỏ và vừa; chấp nhận rủi ro do điều kiện khách quan, bất khả kháng trong hoạt động bảo lãnh; có quy định mức trích quỹ dự phòng tài chính hợp lý, nới lỏng điều kiện cấp bảo lãnh so với điều kiện vay vốn ngân hàng; thực hiện hiệu quả chiến lược tài chính toàn diện quốc gia, thúc đẩy khả năng tiếp cận và sử dụng các sản phẩm tài chính cho DN nhỏ và siêu nhỏ …
Tuy nhiên, theo ông Trịnh Xuân Trường, thực tế lâu nay cho thấy, khả năng tiếp cận nguồn tín dụng ưu đãi đối với các DN nhỏ, siêu nhỏ vô cùng khó khăn, còn tồn tại nhiều rào cản gây ách tắc. Mặc dù trong những năm qua, nhà nước đã chỉ đạo ngành ngân hàng triển khai nhiều cơ chế, chính sách, dành nhiều gói tín dụng ưu đãi cho các ND; trong đó có DN nhỏ và siêu nhỏ, nhằm hỗ trợ các DN này vượt qua thời kỳ khó khăn, phục hồi sản xuất, kinh doanh (nhất là trong thời gian sau dịch Covid -19). Song do các quy định ngặt nghèo về hồ sơ, thủ tục, về điều kiện, tiêu chí cần và đủ để được vay vốn ưu đãi dẫn đến nhiều DN nhỏ và vừa đã không thể tiếp cận nguồn vốn vay này, lý do bởi các chủ DN đã bỏ cuộc do cảm thấy “nản lòng” trước cả “đống” hồ sơ, thủ tục rườm rà, phức tạp không dễ vượt qua.
Trước những thông tin trên, ông Trường bày tỏ hy vọng, những thủ tục, quy định không phù hợp sẽ được bãi bỏ, đơn giản hóa, tình trạng “trên quyết liệt, dưới thờ ơ” sẽ được khắc phục để DN nhỏ và vừa nói riêng, DN tư nhân nói chung được đối xử bình đẳng trong các thành phần kinh tế. Qua đó, được tiếp cận nguồn vay lãi suất thấp, thụ hưởng các chính sách hỗ trợ như cung cấp miễn phí phần mềm kế toán, dịch vụ tư vấn kế toán, thuế; được trừ chi phí đào tạo vào thu nhập tính thuế …
Cũng trong tâm trạng vui mừng, hy vọng về một sự đổi thay mạnh mẽ do Nghị quyết số 68-NQ/TW mang lại đối với các DN tư nhân, ông Lê Khả Tuấn - Giám đốc Cty TNHH Xây dựng Tuấn Tú - bộc bạch: Lâu nay do bận công việc nên ít có thời gian quan tâm đến các vấn đề “vĩ mô” về chủ trương, chính sách của nhà nước liên quan đến DN ngoài quốc doanh. Tuy nhiên gần đây, thông qua cơ quan báo chí và dư luận xã hội, ông đã nghe nhiều thông tin và dành thời gian tìm hiểu kỹ về Nghị quyết số 68 –NQ/TW. Trong các nội dung mà Nghị quyết đề cập, ông rất quan tâm và bày tỏ sự trông đợi vào nội dung cải cách thủ tục hành chính, giảm khó khăn, phiền hà cho DN, dẫn đến tình trạng DN phải có những khoản chi phí “ngoài lề” khi có việc cần đến cơ quan chức năng.
![]() |
Ông Lê Khả Tuấn - Giám đốc Công ty TNHH Xây dựng Tuấn Tú |
Cùng với đó, ông cũng quan tâm đến một nội dung khác của Nghị quyết số 68 –NQ/TW đó là chấm dứt tình trạng chồng chéo, trùng lắp, kéo dài không cần thiết trong công tác thanh tra, kiểm tra; bảo đảm theo nguyên tắc chỉ thanh tra hoặc kiểm tra mỗi năm một lần (đã thanh tra thì không kiểm tra), trừ trường hợp có bằng chứng rõ ràng về vi phạm của DN), xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng thanh, kiểm tra để nhũng nhiễu, gây khó khăn cho DN; ưu tiên thực hiện thanh, kiểm tra theo hình thức từ xa (trực tuyến), giảm thanh, kiểm tra trực tiếp; không kiểm tra thực tế đối với các DN tuân thủ tốt các quy định của pháp luật.
Bên cạnh sự phấn khởi, tin tưởng và chờ đợi hy vọng vào những chuyển biến tốt đẹp do Nghị quyết số 68 –NQ/TW mang lại, ông Tuấn cũng băn khoăn về một chi tiết trong nội dung quy định đối với hoạt động thanh tra, kiểm tra. Đó là (được phép thanh tra, kiểm tra hơn một lần trong năm ) đối với trường hợp “có bằng chứng rõ ràng về vi phạm của DN”. Theo ông Tuấn, cần quy định cụ thể như thế nào là “bằng chứng rõ ràng” để tránh tình trạng “vạch lá tìm sâu” có thể xảy ra trong một bộ phận cán bộ, công chức thực thi công vụ có động cơ vụ lợi.
![]() |
Ông Đỗ Đình Hiệu - Giám đốc VCCI chi nhánh Thanh Hóa - Ninh Bình |
Cùng trao đổi về vấn đề này, ông Đỗ Đình Hiệu - Giám đốc VCCI chi nhánh Thanh Hóa – Ninh Bình phấn khởi khẳng định: Cộng đồng DN đánh giá cao tinh thần hành động quyết liệt, thực tiễn và nhất quán của Thủ tướng Chính phủ trong việc thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế tư nhân, thông qua việc yêu cầu các cấp, ngành phải thiết lập cơ chế phản hồi ý kiến của DN chỉ trong 2 tuần. Đây là một bước tiến quan trọng để hiện thực hóa Nghị quyết số 68 – NQ/TW và tạo dựng môi trường kinh doanh minh bạch, hiệu quả, kịp thời tháo gỡ các điểm nghẽn đang cản trở sự phát triển của DN.
Qua quan sát sau nhiều năm thực hiện chức năng đại diện và hỗ trợ cộng đồng DN tại địa bàn tỉnh Thanh Hóa, ông Đỗ Đình Hiệu thông tin, chủ trương này hoàn toàn có thể triển khai nếu có quyết tâm cao từ lãnh đạo địa phương, cùng với sự phối hợp chặt chẽ giữa các sở, ngành và chính quyền cấp cơ sở. Thực tế thời gian qua, tỉnh Thanh Hóa đã thiết lập các kênh đối thoại định kỳ và cơ chế tiếp nhận, xử lý kiến nghị của DN. Tuy nhiên công tác này được thực hiện chưa thực sự đồng bộ, chưa rõ trách nhiệm, chưa quyết liệt trong xử lý vi phạm do chưa đáp ứng được thời hạn xử lý kiến nghị của DN...
Để bảo đảm hiệu quả thực thi, ông Đỗ Đình Hiệu cho rằng cần thiết lập một số cơ chế giám sát và chế tài, cụ thể: Công khai hóa quy trình xử lý kiến nghị của DN, có mã số hồ sơ và trạng thái theo dõi như cơ chế một cửa điện tử; giao chỉ tiêu cụ thể và gắn trách nhiệm người đứng đầu các sở, ngành, địa phương về xử lý kiến nghị của DN. Định kỳ hàng tháng hoặc quý, UBND tỉnh cần tổ chức rà soát, công bố các cơ quan chậm xử lý, hoặc không trả lời DN theo đúng thời hạn. Ủy quyền cho bên thứ 3 độc lập như VCCI, Hiệp hội DN giám sát tiến độ và chất lượng phản hồi; đồng thời tổng hợp báo cáo Chính phủ, Tỉnh ủy...