Tại Hội thảo Đánh giá 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam (VPE500 - Báo cáo 2025) sáng ngày 6/11, Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính (NIEF) đã công bố Báo cáo 2025 về VPE500. Báo cáo tập trung vào sự biến động của VPE500 trong giai đoạn 2022-2023, nền kinh tế đang phục hồi và tiến tới một giai đoạn tăng trưởng cao.
Theo đó, mặc dù chỉ có 500 doanh nghiệp (chiếm khoảng 0.05% tổng số), VPE500 đang đóng góp đáng kể vào khu vực doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp tư nhân (DNTN) nói riêng. VPE500 đóng góp 11,83% doanh thu, 17,41% nguồn vốn, và 5,86% tổng lao động của toàn bộ khu vực doanh nghiệp. Đáng chú ý là tỷ lệ này có dấu hiệu gia tăng kể từ 2020.
Với riêng khu vực DNTN, VPE500 đang chiếm tỷ lệ khá lớn. Về lao động, đang chiếm khoảng 10%, về doanh thu đang chiếm khoảng 22%, trong khi đó về vốn chiếm tới 34% và có xu hướng tăng. Cho thấy mức độ tập trung khá cao và tốc độ tăng vốn đầu tư của VPE500 là khá ấn tượng, thể hiện kỳ vọng của khu vực doanh nghiệp lớn vào tăng trưởng kinh tế thời gian tới, đồng thời cũng thể hiện sự chống chịu khá tốt của doanh nghiệp lớn so với doanh nghiệp nhỏ.
![]() |
| Hội thảo Đánh giá VPE500 - Báo cáo 2025. Ảnh: Hà Anh. |
Về doanh thu, với một số ngành cụ thể, VPE500 đang chiếm tới 50% trong ngành ngân hàng, 47% với ngành bất động sản và trong chế biến chế tạo là khoảng 13%.
Các doanh nghiệp VPE500 cũng có tỷ lệ hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo cao hơn nhiều với khu vực trong nước khác, kể cả so với khu vực FDI. Nhìn chung, có thể coi đây là những doanh nghiệp tiên phong trong đổi mới sáng tạo, đầu tư cho khoa học công nghệ, từ đó, có tác động lan toả khá tốt tới các ngành và lĩnh vực.
VPE500 không chỉ trực tiếp tạo ra sản lượng lớn mà còn kéo theo sự mở rộng sản xuất ở nhiều ngành khác. Nếu sản lượng của VPE500 tăng thêm 1 đơn vị thì tác động khá tốt đến sản lượng các ngành ở mức từ 0,9 đến 2,7. Điều này cho thấy phát triển VPE500 là một công cụ có tính lan toả và thúc đẩy nhanh tới tăng trưởng và xuất khẩu.
VPE500 cũng có tác động trực tiếp tới năng suất, mức lương và đóng góp ngân sách của khu vực còn lại. Về tác động lan tỏa cùng ngành, VPE500 có tác động tích cực thể hiện qua sự hiện diện của VPE500 ban đầu giúp năng suất lao động của các doanh nghiệp khác tăng lên (0,12%), phản ánh hiệu ứng học hỏi và tiêu chuẩn cạnh tranh. Điều này rất khác so với tác động âm của khu vực FDI thường thấy trong các nghiên cứu gần đây về tác động lan toả năng suất.
Về tác động lan tỏa đến lương, phân tích của Báo cáo cho thấy, VPE500 cùng ngành có tác động tích cực tới mặt bằng lương (0,124%). Điều này chủ yếu đến từ cạnh tranh lao động, khi các doanh nghiệp lớn thường trả lương cao hơn để thu hút lao động có kỹ năng, buộc doanh nghiệp khác phải điều chỉnh theo.
So sánh giữa VPE500 và FDI cho thấy VPE500 có xu hướng làm tăng lương trong cùng ngành và cho các nhà cung cấp, nhưng gây sức ép giảm lương cho khách hàng. Trong khi đó, FDI đem lại lợi ích lan tỏa lương rõ nhất cho các nhà cung cấp, nhưng lại làm giảm mạnh mức lương trong cùng ngành do cạnh tranh trực tiếp.
Trong ngắn hạn, vốn VPE500 có thể tạo áp lực cạnh tranh nguồn lực (hiệu ứng “lấn át tạm thời”), song về dài hạn vốn này phát huy tác động tích cực lên tăng trưởng giá trị gia tăng. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, dịch chuyển chuỗi giá trị và chuyển đổi số, việc hỗ trợ các DNTN vươn ra thị trường quốc tế trở thành trụ cột trong chính sách phát triển của nhiều quốc gia.