![]() |
Các loại gạo thơm như Jasmine, Đài Thơm, ST24, ST25 chiếm tỷ trọng 19% chủ yếu xuất khẩu sang EU, Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản. |
Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, trong 2 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu gạo cả nước ước đạt 1,1 triệu tấn (tăng 5,9%), giá trị đạt 613 triệu USD (giảm 13,6%). Giá xuất khẩu gạo trung bình ước đạt 553,6 USD/tấn, giảm 18,3% so với cùng kỳ năm 2024.
Trong những ngày đầu tháng 3/2025, gạo trắng xuất khẩu chiếm tỷ trọng tới 71%, giá xuất khẩu trung bình 523-540 USD/tấn) chủ yếu xuất khẩu sang Philippines, Indonesia và Châu Phi. Các loại gạo thơm như Jasmine, Đài Thơm, ST24, ST25 chiếm tỷ trọng 19%, giá xuất khẩu 640-700 USD/tấn), chủ yếu xuất khẩu sang EU, Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản. Gạo nếp chiếm 6% xuất khẩu sang Trung Quốc, Philippines và một số nước Đông Nam Á khác. Gạo Japonica và gạo đặc sản khác xuất khẩu chiếm tỷ trọng 4% chủ yếu tiêu thụ tại Nhật Bản, Hàn Quốc và thị trường cao cấp khác.
Năm 2024, Philippines là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với thị phần chiếm 46,1%, giá trị tăng 48,9% so với 2023, khối lượng khoảng 2,91 triệu tấn, chủ yếu là gạo trắng và một phần nhỏ gạo thơm.
Bên cạnh đó, hai thị trường lớn Indonesia và Malaysia với thị phần tương ứng là 13,2% (giá trị tăng 16,6%) và 7,5% (giá trị tăng 2,1 lần). Trung Quốc cũng là thị trường nhập khẩu gạo lớn với khối lượng 1 triệu tấn năm 2024 nhưng giảm mạnh (68,45) so với năm 2023. EU và Hoa Kỳ là 2 thị trường nhập khẩu các loại gạo chất lượng cao như gạo thơm đặc sản ST24, ST25 với thị phần nhỏ khoảng 0,5-0,6%/năm.
Theo Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA), sản lượng gạo toàn cầu năm 2024/2025 dự kiến đạt mức cao kỷ lục 533,7 triệu tấn (gạo xay xát), tăng 11 triệu tấn so với năm trước. Nguồn cung toàn cầu dự báo đạt 712,8 triệu tấn (tăng 9,5 triệu tấn). Tiêu thụ toàn cầu dự báo ở mức cao 530,3 triệu tấn, tăng 6,2 triệu tấn so với năm 2024, nhờ sự gia tăng tiêu thụ tại các quốc gia như Ấn Độ và Philippines.
Dự trữ cuối kỳ ước tính đạt 182,5 triệu tấn, tăng 3,4 triệu tấn so với năm trước (Ấn Độ và Trung Quốc chiếm đến 81% lượng dự trữ toàn cầu). Thương mại toàn cầu dự kiến đạt 58,5 triệu tấn với nhu cầu tăng mạnh từ các thị trường lớn như Philippines và Indonesia
Gạo Việt Nam đang đối mặt với việc cạnh tranh gia tăng trên thị trường quốc tế khi Ấn Độ dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo trắng từ tháng 9/2024, việc này đã tạo áp lực lớn lên các quốc gia xuất khẩu khác, đặc biệt là gạo trắng cấp thấp. Trong khi đó, gạo giá rẻ từ Pakistan và Myanmar tiếp tục chiếm ưu thế ở các thị trường nhạy cảm về giá như Châu Phi, Trung Đông. Gạo thơm Thái Lan vẫn duy trì vị thế cao cấp, gây áp lực cạnh tranh trong phân khúc gạo chất lượng cao.
Những áp lực về nguồn cung thế giới dồi dào dẫn tới sự sụt giảm giá mạnh đã đặt ra bài toán cần phải đẩy mạnh hơn nữa xuất khẩu gạo chất lượng cao. Đặc biệt là khi các giống gạo chất lượng, giá thành cao đang chiếm tỷ trọng rất khiêm tốn trong tổng số gạo xuất khẩu.
Tại hội nghị về ổn định thị trường lúa gạo do Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức ngày 4/3, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy cho rằng để đối phó với những khó khăn hiện tại và duy trì phát triển bền vững ngành sản xuất lúa gạo trong tương lai cần cải thiện cơ cấu sản xuất và chất lượng sản phẩm, trong đó tiếp tục chuyển mạnh hơn nữa sang các sản phẩm lúa gạo chất lượng cao.
Đặc biệt, đối với diện tích mở rộng và tăng vụ cần ưu tiên phát triển các giống lúa có chất lượng cao. Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ tiếp tục triển khai Đề án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao, phát thải thấp, nghiên cứu giống lúa chịu hạn, chịu mặn, kháng sâu bệnh để đối phó với biến đổi khí hậu.
Nhấn mạnh về tầm quan trọng của việc xây dựng thương hiệu gạo bền vững và thân thiện môi trường, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy cho rằng cùng với việc xây dựng thương hiệu, cần chú trọng phát triển các thị trường khó tính nhưng tiềm năng như Nhật Bản, EU và Mỹ. Những thị trường này dù giá trị xuất khẩu chưa lớn nhưng rất ổn định và ít bị ảnh hưởng bởi biến động của thị trường thế giới.
Trước đó, trong Công điện số 21/CĐ-TTg ngày 4/3/2025 về việc điều hành đảm bảo cân đối cung cầu lúa gạo trước diễn biến thị trường thế giới và trong nước, Thủ tướng Phạm Minh Chính cũng yêu cầu về dài hạn, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tập trung nghiên cứu, cải thiện cơ cấu sản xuất và chất lượng sản phẩm, tập trung vào các giống lúa có chất lượng và giá trị cao, các giống lúa đặc sản; ứng dụng công nghệ hiện đại, đầu tư nghiên cứu và nhân giống, phát triển các giống lúa có khả năng chịu hạn, chịu mặn, kháng sâu bệnh nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu và thiên tai.
Nâng cao năng lực cạnh tranh cho gạo Việt Nam không phải là câu chuyện ngày một ngày hai, mà là cả một hành trình dài đòi hỏi sự quyết tâm, đồng lòng của tất cả các bên liên quan. Từ người nông dân trên đồng ruộng, doanh nghiệp thu mua đến nhà quản lý – tất cả phải chung tay để xây dựng một nền sản xuất lúa gạo hiện đại, bền vững, vươn xa trên thị trường thế giới. Hạt gạo Việt không chỉ là nguồn sống cho hàng triệu người mà còn là niềm tự hào của dân tộc, ghi dấu ấn Việt Nam trên bản đồ lương thực toàn cầu.