![]() |
Luật sư Nguyễn Thị Ngọc Anh, CEO Công ty Luật TNHH Toàn cầu ATA, hội viên CLB CEO 1983 |
Bằng vô số chiêu trò tinh vi từ cam kết lợi nhuận phi thực tế, tạo dựng phông bạt PR với giải thưởng hoành tráng vinh danh doanh nghiệp, chụp ảnh “bắt tay lãnh đạo Chính phủ”, “gặp gỡ quỹ ngoại”, cho đến khoe hình ảnh trên trước sàn chứng khoán quốc tế hay tiếp đón “người khổng lồ công nghệ” – những người đứng sau các mô hình này đã biến khát vọng đầu tư chính đáng của nhiều người thành một cuộc chơi đầy rủi ro. Cả một hệ thống truyền thông và đội quân chân gỗ làm màu đã góp phần làm cho cộng đồng nhà đầu tư bị thao túng tâm lý và tiếp tục xuống tiền đầu tư. Khi hành lang pháp lý cho gọi vốn cộng đồng (crowdfunding), tài sản số và đồng tiền kỹ thuật số tại Việt Nam còn chưa hoàn thiện, khoảng trống đó đang bị lợi dụng triệt để. Vì lẽ đó, các cá nhân sau nhiều năm tự huy động vốn cộng đồng theo danh nghĩa cá nhân ký kết hợp đồng, khi hệ thống chưa vỡ, thì chưa bị pháp luật sờ tới.
Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhậpđã có cuộc phỏng vấn với Luật sư Nguyễn Thị Ngọc Anh – Đoàn Luật sư Hà Nội, CEO Công ty Luật TNHH Toàn cầu ATA, để mổ xẻ bản chất những mô hình này, phân tích lỗ hổng pháp luật, và đưa ra lời khuyên thực tiễn cho các nhà đầu tư.
![]() |
Luật sư Ngọc Anh tham gia Toạ đàm về Tháo gỡ điểm nghẽn pháp lý tạo không gian phát triển cho doanh nghiệp. |
PV: Thưa Luật sư, vì sao nhiều cá nhân có thể huy động tới hàng ngàn tỷ đồng, vẽ ra viễn cảnh vốn hóa tỷ đô ?
Luật sư Ngọc Anh: Là một luật sư đã có nhiều năm kinh nghiệm tư vấn và làm việc trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, năm 2023, tôi cũng từng có bài viết phân tích pháp lý về gọi vốn cộng đồng – crowdfunding khi phân tích, đánh giá vụ việc thất bại của dự án Superstrata - “xe đạp in 3D” trên nền tảng Indiegogo, trong đó có cảnh báo về các hình thức kêu gọi vốn có mô hình tương tự với crowdfunding nhưng được triển khai một cách tự phát bởi một/một số cá nhân mà không có bất kỳ một cơ chế kiểm tra, kiểm soát nào. Đến nay, theo đánh giá của tôi, ở Việt Nam, mô hình huy động vốn bất hợp pháp với thủ đoạn ngày càng tinh vi và giá trị vốn kêu gọi được cũng ngày càng lớn. Trong đó, những cá nhân đứng ra kêu gọi hoặc bảo chứng cho dự án huy động vốn thường là những người nổi tiếng hoặc có vị thế trong xã hội, từ đó dễ dàng có được lòng tin của công chúng. Điều đáng nói là rất nhiều trong số các dự án được huy động vốn đó bị “chết yểu” khiến các nhà đầu tư không kịp trở tay, nhiều trường hợp còn mất trắng toàn bộ khoản vốn bỏ ra.
PV: Vậy theo bà đây có phải là khoảng trống và sự chậm trễ trong hoàn thiện khung pháp lý
Luật sư Ngọc Anh: Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi số mạnh mẽ, nhưng hành lang pháp lý liên quan đến huy động vốn cộng đồng (crowdfunding), tiền/tài sản số, tiền/tài sản mã hoá vẫn chưa hoàn thiện. Chỉ bắt đầu từ sau khi Nghị quyết 68-NQ/TW ra đời, vấn đề huy động vốn cộng đồng, tiền/tài sản số, tiền/tài sản mã hoá mới được chính thức xác định là một trong những vấn đề cần chú trọng hoàn thiện khung pháp lý.
Đối với vấn đề huy động vốn cộng đồng, ngày 27/6/2025, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết 222/2025/QH15 về Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam, trong đó xác định Trung tâm tài chính quốc tế do Chính phủ thành lập đặt tại Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng, tập trung hệ sinh thái đa dạng các dịch vụ tài chính và dịch vụ hỗ trợ. Nghị quyết lần đầu ghi nhận việc chấp thuận cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo “Được huy động vốn bằng cơ chế gọi vốn cộng đồng… thông qua nền tảng huy động vốn của tổ chức được Cơ quan điều hành cấp phép theo hướng dẫn của Chính phủ”. Tuy nhiên, tính đến nay, chúng ta vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể của Chính phủ về vấn đề này.
Về tiền ảo, tiền số, tiền/tài sản mã hoá, Ngày 09/09/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 05/2025/NQ-CP trong đó ghi nhận tài sản số, tài sản mã hoá là tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự và được phát hành dựa trên cơ sở tài sản thực của doanh nghiệp. Đồng thời, Nghị quyết 05 cũng yêu cầu các nhà đầu tư Việt Nam phải đưa toàn bộ tài sản số/mã hoá về giao dịch tập trung tại tổ chức cung cấp dịch vụ tài sản mã hóa do Bộ Tài Chính cấp phép để lưu ký và giao dịch. Tuy nhiên, Nghị quyết 05 cũng mới chỉ đưa ra các quy định sơ khởi ban đầu, vẫn còn rất nhiều vấn đề chưa được làm rõ, đặc biệt là vấn đề trách nhiệm của đơn vị phát hành khi có yếu tố vi phạm và gây thiệt hại cho nhà đầu tư.
Vấn đề tiền ảo, tiền số, tiền mã hoá và huy động vốn cộng đồng đã xuất hiện trên thị trường Việt Nam rất nhiều năm nay. Nhưng như chúng ta đã thấy, hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh các vấn đề này gần như chưa có, gần đây mới chỉ đề cập sơ bộ và/hoặc chỉ đưa ra quy định mang tính thử nghiệm. Chính vì vậy, có thể thấy rằng, đối với vấn đề này, Việt Nam đã và đang ở trong tình trạng bị khoảng trống pháp lý, khiến những mô hình núp bóng “hợp tác đầu tư”, “cổ phần tương lai”, hay phát hành “token” đều nằm ngoài khung pháp luật, khó xử lý ngay từ đầu.
PV: Vậy theo bà đâu là cơ chế giám sát và cảnh báo tội phạm?
Luật sư Ngọc Anh: Các vụ việc này ban đầu thường được khoác áo “đổi mới sáng tạo”, “startup công nghệ”, tham dự diễn đàn lớn, nhận giải thưởng doanh nhân xuất sắc, doanh nghiệp tiêu biểu, tài trợ sự kiện để có cơ hội bắt tay lãnh đạo, chụp ảnh cùng các yếu nhân, xuất hiện cùng quỹ ngoại hay được quảng bá trên truyền thông quốc tế. Những hình ảnh này tạo ra “áo choàng” hợp pháp, khiến nhà đầu tư tin tưởng và cơ quan quản lý khó can thiệp khi chưa có bằng chứng vi phạm rõ ràng.
Các vụ việc này thường liên quan đến số lượng nạn nhân khổng lồ (hàng chục nghìn người), chứng cứ phân tán trên không gian mạng, và dòng tiền chuyển dịch xuyên biên giới qua ví điện tử hoặc sàn giao dịch quốc tế. Việc xác minh từng giao dịch, lời khai và tài liệu thu thập chứng cứ hết sức khó khăn và cần nhiều thời gian.
Ngoài ra còn có yếu tố tâm lý và hành vi nạn nhân. Hầu hết trường hợp, nhà đầu tư bị cuốn vào bởi lời hứa lợi nhuận cao mà không thực sự có đủ hiểu biết hoặc đơn giản là theo tâm lý đám đông. Chính vì vậy, rất nhiều nhà đầu tư ngại “mất mặt” hoặc hi vọng “gỡ gạc” nên khi gặp vấn đề cũng không dám công khai tố cáo hoặc cảnh báo với cộng đồng. Điều này làm kéo dài giai đoạn “ẩn náu” của đối tượng, cho phép họ tiếp tục huy động vốn hoặc sử dụng vốn không theo cam kết với nhà đầu tư trước khi vụ việc vỡ lở.
![]() |
Luật sư Ngọc Anh cùng hội viên CLB CEO 1983, và các doanh nhân trao đổi, cập nhật kiến thức pháp lý để quản trị doanh nghiệp hiệu quả hơn. |
PV: Các chiêu thức “đánh bóng” để lôi kéo cộng đồng thường diễn ra như thế nào?
Luật sư Ngọc Anh: Nếu các tổ chức tín dụng khi cho vay thì ngoài uy tín của người vay sẽ phải thẩm định tài sản, năng lực tài chính và lịch sử tín dụng của người vay; còn những trường hợp này, ngoài niềm tin đối với hình ảnh của đối tượng kêu gọi vốn và sự kì vọng đối với lợi nhuận thu được trong tương lai, cộng đồng gần như không có bất kỳ cơ sở nào rõ rệt. Chính vì vậy, để có thể khiến cộng động tin tưởng, các đối tượng này thường sẽ sử dụng các chiêu trò để “đánh bóng” như sau:
Sẵn sàng đưa ra mức cam kết lợi nhuận phi thực tế và mô hình đa cấp trá hình là một trong những chiêu thức phổ biến nhất là đưa ra cam kết lợi nhuận cao bất thường, thường từ 20-50% mỗi năm, thậm chí 1-2% mỗi ngày, vượt xa mức sinh lời hợp lý của các kênh đầu tư hợp pháp như trái phiếu Chính phủ hay gửi tiền tiết kiệm. Tuy nhiên, đây thường là mô hình Ponzi hoặc đa cấp trá hình, nơi tiền của nhà đầu tư mới được dùng để chi trả lợi nhuận cho nhà đầu tư cũ, không dựa trên hoạt động kinh doanh thực tế. Chính vì vậy, khi không còn đủ tiền để trả cho nhà đầu tư thì mô hình này sẽ sụp đổ nhanh chóng.
Tạo dựng hình ảnh uy tín giả tạo qua PR và sự kiện hoành tráng Các bên huy động vốn thường tổ chức các sự kiện quy mô lớn, sử dụng hình ảnh “bắt tay lãnh đạo”, “gặp gỡ quỹ đầu tư nước ngoài” hoặc “tiếp đón người khổng lồ công nghệ” để đánh bóng uy tín. Một chiêu thức phổ biến là quảng bá hình ảnh xuất hiện trên bảng quảng cáo tại Nasdaq hoặc các địa điểm quốc tế danh giá, dù không có bằng chứng xác thực về mối quan hệ đối tác. Những hình ảnh này đương nhiên rất dễ chiếm lòng tin của các nhà đầu tư trên thị trường.
Lợi dụng công nghệ và nền tảng số để tạo vỏ bọc hợp pháp
Các đối tượng thêu dệt nên bức tranh màu hồng của những kỳ lân công nghệ sẽ vốn hóa tỷ đô, thường sử dụng các nền tảng công nghệ, như blockchain hoặc ví điện tử, để tạo vẻ ngoài “hiện đại” và “đáng tin cậy”. Họ thiết kế các website chuyên nghiệp, ứng dụng giao dịch giả mạo hoặc thậm chí phát hành “token” riêng, nhưng thực chất không có giá trị thực hoặc không được giao dịch trên các sàn uy tín. Sau đó, họ liên tiếp sử dụng các chiêu thức để nâng giá trị ảo của token, bán tháo khi đạt mức giá trị kì vọng. Hậu quả là, giá trị của token trở về đúng giá trị thực và rất nhiều nhà đầu tư bị mất trắng.
Tận dụng tâm lý đám đông và mạng xã hội
Các đối tượng thường thuê “người nổi tiếng” (KOL, KOC) hoặc lấy cắp hình ảnh (không xin phép), sử dụng mạng xã hội để lan truyền thông điệp “làm giàu nhanh chóng”. Họ khuyến khích nhà đầu tư mời bạn bè tham gia thông qua mô hình “hoa hồng giới thiệu”, tạo hiệu ứng đám đông. Với sức hút, sức ảnh hưởng của KOLs, không ít người dân lựa chọn tin tưởng hoàn toàn, tuyệt đối và coi họ như người dẫn lối, chỉ đường cho mọi quyết định đầu tư của mình.
Ngụy tạo giấy tờ pháp lý
Các tổ chức huy động vốn thường cung cấp “hợp đồng đầu tư” hoặc “thỏa thuận góp vốn” với ngôn ngữ pháp lý phức tạp nhưng không có giá trị thực tế, nhằm tạo cảm giác hợp pháp. Một số trường hợp giả mạo giấy phép từ cơ quan chức năng hoặc sử dụng văn bản của các tổ chức quốc tế không rõ ràng, không được chấp thuận ở Việt Nam (không có giá trị pháp lý).
Trong bối cảnh hiện nay, người dân nếu đã góp vốn có thể đòi lại tiền như thế nào? Luật sư Ngọc Anh: Về nguyên tắc, pháp luật bảo hộ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Nếu như trước đây, tài sản số/ tài sản mã hoá, tiền số/ tiền mã hoá chưa được công nhận là tài sản, các công tác bảo vệ quyền lợi của người dân thường khó khăn. Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, sự ra đời của Nghị quyết 05/2025/NQ-CP – chính thức ghi nhận các loại tài sản số/tài sản mã hoá là tài sản hợp pháp thì người dân đã hoàn toàn có đủ quyền và cơ chế để đòi lại tiền. Có cơ sở để xác định và chứng minh số tiền, hành vi góp vốn/chuyển tiền cho mục đích góp vốn/mua tài sản số/tài sản mã hoá. Cụ thể, đó là các hợp đồng góp vốn, các chứng từ chuyển tiền, các tài liệu chứng minh quyền sở hữu tài sản số/tài sản mã hoá, để xác định và xác minh tư cách pháp lý của các tổ chức, cá nhân huy động vốn và ký hợp đồng với mình. Có cơ sở để xác định tổ chức huy động vốn đã không thực hiện đúng cam kết hoặc có yếu tố lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Phương thức đòi lại tiền thì tùy thuộc vào tính chất vụ việc, người dân, có thể áp dụng một trong các phương thức sau: Thương lượng trực tiếp với tổ chức huy động vốn. Lưu ý: Kết quả thương lượng cần được ghi nhận bằng văn bản có chữ ký xác nhận của đại diện có thẩm quyền của tổ chức huy động vốn. Khởi kiện dân sự, nếu thương lượng thất bại hoặc không có điều kiện/cơ sở để triển khai thương lượng, nhà đầu tư có thể nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền để yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu, đòi hoàn trả tài sản hoặc yêu cầu bồi thường thiệt hại....cần lưu ý thời hiệu khởi kiện là 2 năm kể từ ngày quyền lợi bị xâm phạm (Điều 429 Bộ luật Dân sự 2015), trừ trường hợp đặc biệt. Tố giác tội phạm, nếu phát hiện dấu hiệu lừa đảo hoặc lừa dối khách hàng (ví dụ: cam kết lợi nhuận phi thực tế, giả mạo giấy phép, cung cấp thông tin không đầy đủ hoặc có yếu tố lừa dối, người đại diện tổ chức bỏ trốn…), nhà đầu tư có thể nộp đơn tố giác tội phạm tại Cơ quan Công an theo quy định. Người dân nên tham khảo ý kiến tư vấn của các Luật sư, chuyên gia pháp lý để có hướng thu thập chứng cứ, tài liệu liên quan và lựa chọn phương án triển khai phù hợp, hiệu quả. |
PV: Theo bà, giải pháp nào có thể chặn đứng tình trạng này?
Luật sư Ngọc Anh: Hiện nay, các quy định pháp lý về các vấn đề huy động vốn cộng đồng còn quá mỏng và thiếu. Các nhà làm luật cần đẩy nhanh việc ban hành các văn bản pháp lý quy định chi tiết, hướng dẫn về các cách thức triển khai các dự án huy động vốn bằng các hình thức cũng như xác định cơ chế, công cụ để quản lý, kiểm soát rủi ro, bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư tham gia dự án.
Một giải pháp căn cơ khác là kiểm soát chặt chẽ khi giao dịch tiền nhiều bước, phối hợp với các ngân hàng, yêu cầu có ký kết, công chứng các giấy tờ pháp lý. Vẫn cần đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến pháp luật để nâng cao nhận thức của người dân, giúp họ nhận diện các chiêu thức lừa đảo như PR bằng các chiêu thức như đã nêu trên. Ngoài các cơ quan quản lý, cơ quan báo chí cũng cần liên tục có các khuyến nghị tăng cường giáo dục kỹ năng nhận biết thủ đoạn và mô hình lừa đảo tinh vi để cảnh báo, hướng dẫn, nhắc nhở người dân.
Về phía các luật sư, công ty luật, chúng tôi vẫn đã và đang liên tục cập nhật các chính sách, quy định pháp luật và thường xuyên đăng tải các bài viết, chuyên đề pháp lý để giúp người dân hiểu biết đầy đủ, đúng đắn và tạo thói quen cẩn trọng khi triển khai các giao dịch đầu tư, kinh doanh. Đầu tư luôn có rủi ro, nhưng nếu có cân nhắc, đánh giá và thận trọng ở mức vừa phải, bạn hoàn toàn có thể tránh được hoặc khoanh vùng được những rủi ro này.
Tôi khuyến cáo, hãy chỉ góp vốn vào pháp nhân minh bạch và bằng những kênh hợp pháp; yêu cầu giấy tờ, thông tin hợp lệ, đầy đủ trước khi chính thức quyết định và nếu không thể hoặc không đủ tự tin thì hãy hỏi luật sư, chuyên gia pháp lý để xác minh tất cả giấy tờ, thông tin đó; tránh hùa theo tâm lý đám đông khi chưa thực sự hiểu tường tận, cặn kẽ.
Khi người dân đã trót quyết định đầu tư, ngay khi có nghi ngờ, đừng im lặng, hãy hành động ngay để có thể bảo vệ quyền lợi của mình nhanh chóng, kịp thời và nếu không đạt được mục tiêu cho riêng mình thì ít nhất cũng đã góp phần giảm bớt những trường hợp tương tự như mình.
Trân trọng cảm ơn luật sư!