Ở Việt Nam, mặc dù kinh tế chia sẻ chưa phát triển mạnh như tại nhiều nước trên thế giới, nhưng trong những năm gần đây, mô hình này đã có bước phát triển nhanh chóng.
Dự thảo mới nhất Báo cáo đánh giá tác động của một số loại hình kinh tế chia sẻ (KTCS) của Bộ Kế hoạch - Đầu tư cho biết một số loại hình kinh tế chia sẻ chính đang hoạt động ở Việt Nam hiện nay, bao gồm vận tải trực tuyến, chia sẻ phòng ở lưu trú và cho vay ngang hàng dù mới bước đầu phát triển nhưng đã thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Cụ thể, trong dự thảo báo cáo đánh giá tác động của một số loại hình kinh tế chia sẻ tới nền kinh tế gửi các Bộ, cơ quan ngang bộ, Bộ KH&ĐT cảnh báo nhiều tổ chức nước ngoài hoạt động về kinh tế chia sẻ hiện đại đang gia tăng hoạt động ở Việt Nam, trong khi các nước đang tăng cường quản lý, giám sát chặt chẽ..
Ông Lưu Đức Khải - Trưởng ban Nghiên cứu các vấn đề xã hội - CIEM cho biết, mô hình kinh tế chia sẻ sẽ tác động tới thúc đẩy kinh doanh, mở rộng cơ hội kinh doanh, tăng số lượng chủ thể tham gia thị trường trong nền kinh tế; đồng thời, đa dạng hóa và tăng chủng loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cung cấp và đưa ra nhiều hơn các loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ được trao đổi, mua bán trên thị trường.
Cùng với đó,mô hình kinh tế chia sẻ còn tác động tới thúc đẩy cạnh tranh và tăng tính minh bạch của thị trường; tăng tính minh bạch của thị trường trong nền kinh tế; nâng cao hiệu suất của thị trường một số ngành sản phẩm, dịch vụ trong nền kinh tế kinh tế chia sẻ. Đặc biệt, kinh tế chia sẻ tác động thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang các ngành có hàm lượng công nghệ cao, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế....
Doanh nghiệp ngoại chiếm lĩnh thị trường
Nhưng đáng chú ý,với mô hình kinh tế chia sẻ, một số sản phẩm có thể bị lũng đoạn bởi doanh nghiệp kinh tế chia sẻ; nguy cơ bị các tập đoàn đa quốc gia thâu tóm các doanh nghiệp kinh tế chia sẻ trong nước, lũng đoạn và chi phối thị trường kinh tế chia sẻ và một số sản phẩm dịch vụ ở Việt Nam; gây ra rủi ro chính sách và pháp lý đối với các chủ thể tham gia thị trường kinh tế chia sẻ. Cùng với đó, có những rủi ro phát sinh từ những biến tướng khó lường, khó dự đoán và khó kiểm soát của kinh tế chia sẻ...
Hiện đang có xu hướng các tập đoàn lớn của nước ngoài với ưu thế về vốn và công nghệ đẩy mạnh mua lại cổ phần chi phối tại các công ty thuộc loại hình KTCS ở Việt Nam, thậm chí chấp nhận thua lỗ trong ngắn hạn để chiếm lĩnh thị trường. Vì thế, các nhà đầu tư ngoại giữ vai trò dẫn dắt, chi phối các mô hình kinh doanh chia sẻ ở trong nước và kết nối với mạng lưới các chi nhánh khác ở nước ngoài.
Đơn cử như ví điện tử, một trong các mô hình KTCS đầu tiên tại Việt Nam với những cái tên quen thuộc như Payoo, MoMo... đến nay đã có tới vài chục triệu người sử dụng.
Báo cáo mới đây của Tập đoàn tài chính JP Morgan cho biết 19% giá trị giao dịch thương mại điện tử ở Việt Nam được thực hiện qua ví điện tử. Con số này ngang với thanh toán bằng tiền mặt, xếp sau thanh toán qua thẻ (34%) và chuyển khoản ngân hàng (22%). Với thị trường đầy tiềm năng này, các ví điện tử đang thi nhau nở rộ để chiếm lĩnh thị trường thương mại điện tử.
Tuy nhiên, nhìn vào danh sách những “ông lớn” có lượng người dùng nhiều nhất hiện nay như MoMo, Zalopay, Airpay, GrabPay by Moca, VNPay, Viettelpay, Payoo, chỉ có duy nhất Viettelpay là thuần Việt, còn lại hầu hết được rót vốn đầu tư hoặc bán cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Tương tự, trong lĩnh vực đặt dịch vụ du lịch trực tuyến, các doanh nghiệp (DN) Việt cũng không thoát khỏi vị trí làm nền khi những cái tên đứng ở vị thế thống lĩnh đều mang quốc tịch ngoại như Agoda.com, Booking.com (đều thuộc Booking Holdings), Trivago.com, Hotels.com (đều thuộc Expedia Group), hay Airbnb.com, Tripadvisor, Traveloka (Indonesia)…
Quen thuộc hơn, mô hình kết nối vận tải như Uber, Grab bắt đầu xuất hiện từ năm 2014 đã được hàng triệu người sử dụng, kéo theo hàng loạt dịch vụ tương tự của các DN trong và ngoài nước gia nhập thị trường. Theo báo cáo mới nhất của Hãng nghiên cứu thị trường ABI Research, với việc hoàn tất 62,5 triệu cuốc xe trong nửa đầu năm nay, Grab vẫn là hãng gọi xe công nghệ dẫn đầu thị trường VN, chiếm 74,6% thị phần. Đứng thứ 2 là ứng dụng BE đang chiếm 12,4% thị trường nhưng cũng đang bị đối thủ đến từ Indonesia là Gojek bám đuổi rất sát với tỷ trọng 12,3% thị phần.
Trước đó, sau khi Grab thâu tóm Uber vào 2018, rất nhiều ứng dụng gọi xe quốc tịch Việt như be, FastGo, Vato, Aber, MyGo, Go-ixe, Xelo, Ahamo... đã ra đời với mong muốn trở thành đối trọng giành lại thị trường cho DN nội. Thế nhưng sau hai năm chật vật, nhiều cái tên trong số này đã trở nên mờ nhạt, thậm chí “rơi rụng”, chỉ còn app mà không còn thấy bóng dáng tài xế xuất hiện trên đường phố.
Yếu và thiếu cả nguồn lực lẫn công nghệ
Trước thực trạng trên, Bộ KH-ĐT cho rằng nếu không khẩn trương ban hành và triển khai chiến lược hỗ trợ DN trong nước thì có thể dẫn đến hiện tượng bị nước ngoài chi phối hoàn toàn thị phần KTCS trong nước.
Ngoài ra, các đối tác khác của mô hình KTCS khi không cập nhật được thông tin, công nghệ sẽ trở thành đối tượng yếu thế, mất việc làm... vì không theo kịp hoặc bị hình thức kinh doanh mới thống lĩnh, chiếm thị phần. Phân tích cụ thể, chuyên gia kinh tế Đỗ Hòa đánh giá có 2 nguyên nhân chính dẫn đến sự lép vế của DN Việt là nguồn lực hạn chế và công nghệ còn yếu.
Về nguồn lực, các lĩnh vực thuộc mô hình KTCS là một sân chơi lớn, đòi hỏi mức đầu tư rất mạnh và lâu dài. Trong giai đoạn đầu, các DN phải “đổ” tiền mạnh, chấp nhận lỗ để chiếm thị phần. Sau khi giành được lượng thị phần nhất định, họ bắt đầu mở thêm những dịch vụ, ứng dụng khác trong hệ sinh thái để bù lỗ, thu lời. Trong khi đó, DN Việt đa phần yếu, nguồn lực thấp, không đủ “sức” để chạy đường dài. Gốc rễ vấn đề là do nhà nước chưa có chính sách, chiến lược kinh tế tập trung phát triển những ngành kinh tế này. Chủ trương kêu gọi, khuyến khích KTCS nhưng không tạo cơ chế, chính sách hỗ trợ cụ thể như các nước: Singapore ưu đãi thuế, chính phủ Trung Quốc thậm chí “bơm” tiền hỗ trợ DN trong giai đoạn đầu. Cũng chính vì DN Việt phải “đơn thương độc mã” trong cuộc chiến giành thị phần, không có sự hỗ trợ từ chính sách nên giảm cơ hội gọi vốn từ các nhà đầu tư. Rủi ro cao, nhà đầu tư e dè.
Về công nghệ, KTCS chủ yếu dựa trên nền tảng trí tuệ nhân tạo (AI). Lĩnh vực này Việt Nam mới bắt đầu kêu gọi đầu tư, trong khi các nước đã đi trước từ rất lâu, công nghệ, kinh nghiệm đều tốt hơn Việt Nam. Mặt khác, các DN nước ngoài vào Việt Nam thu thập, khai thác dữ liệu được bảo vệ chặt chẽ bởi luật Đầu tư nước ngoài, trong khi môi trường thu thập, phân tích dữ liệu người dùng của Việt Nam còn rất nhiều bất cập. Chưa có môi trường lành mạnh, nền tảng pháp lý đủ mạnh để tạo sân chơi cho công nghệ số ở Việt Nam có thể phát huy.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật quản lý KTCS
Để phát triển mô hình kinh tế chia sẻ đúng cách, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đã đề xuất hoàn thiện hệ thống luật pháp quản lý kinh tế chia sẻ, quy định rõ trách nhiệm giữa các bên trong kinh tế chia sẻ, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong quản lý đối với mô hình kinh tế chia sẻ.
Cùng với đó là đề xuất nghiên cứu rà soát các quy định pháp luật hiện hành về đầu tư liên quan đến các nhà đầu tư nước ngoài hoặc có nguồn gốc từ nước ngoài là bên cung cấp nền tảng kết nối và hoạt động theo mô hình kinh tế chia sẻ ở Việt Nam để xác định lỗ hổng pháp lý và bổ sung.
“Cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện khung khổ luật pháp, chính sách về tạo lập môi trường kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp hoạt động kinh tế chia sẻ và doanh nghiệp kinh doanh truyền thống, giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động kinh doanh chia sẻ trên thị trường trong nước”, ông Lưu Đức Khải cho biết. Đặc biệt, cần nâng cao năng lực độc lập, tự chủ về công nghệ, phát triển nhanh các công nghệ nền tảng, nhất là các công nghệ nền tảng lớn, giảm dần lệ thuộc của nền kinh tế vào các nền tảng công nghệ lớn ở nước ngoài.
Bảo Bảo