Giá lúa gạo tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long hôm nay biến động. Thị trường lượng ít, các mặt hàng gạo tương đối ổn định, lúa tươi tăng giảm trái chiều so với đầu tuần.
![]() |
Giá lúa gạo hôm nay 19/6/2025: Giá lúa tăng giảm trái chiều, gao xuất đảo chiều tăng nhẹ |
Giá gạo trong nước
Ghi nhận tại các địa phương hôm nay, nguồn ít, giá vững, giao dịch mua bán lai rai. Tại An Giang, giao dịch mua bán khá hơn, giá ít biến động. Tại Lấp Vò (Đồng Tháp), về lượng ít, gạo các loại tương đối ổn định. Tại Sa Đéc (Đồng Tháp), lương về lai rai, gạo các loại bình giá.
Kênh chợ Sa Đéc (Đồng Tháp), về lượng ít, kho chợ mua đều, giá gạo các loại ít biến động. Tại An Cư (Cái Bè, Tiền Giang), về lượng khá, giá ít biến động, giao dịch mua bán khởi sắc.
Trong phiên sáng nay 18/6, giá gạo nguyên liệu tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long giảm nhẹ. Cụ thể, giá gạo nguyên liệu IR 504 tăng nhẹ 50 đồng/kg, đạt mức 8.050 - 8.150 đồng/kg. Trong khi giá gạo nguyên liệu CL 555 ổn định ở mức 8.250 - 8.350 đồng/kg.
![]() |
Bảng giá gạo hôm nay 19/6/2025 |
Tại các chợ dân sinh, mặt hàng gạo bán lẻ giảm nhẹ. Cụ thể, gạo thường đã giảm 1.000 đồng/kg, giao dịch ở mức 13.000 – 14.000 đồng/kg. Trong khi đó gạo thơm giữ mức phổ biến từ 18.000 - 22.000 đồng/kg; gạo thơm Thái 20.000 - 22.000 đồng/kg; Hương Lài niêm yết 22.000 đồng/kg; gạo thường 15.000 - 16.000 đồng/kg; gạo Nàng Nhen vẫn giữ mức cao nhất với giá 28.000 đồng/kg. gạo thường đã giảm 1.000 đồng/kg, được bán ở mức 13.000 – 14.000 đồng/kg.
Phân khúc nếp không biến động. Cụ thể, nếp IR 4625 (khô) hiện ở mức 9.500 – 9.700 đồng/kg; nếp 3 tháng khô ở mức 9.600 – 9.700 đồng/kg; nếp IR 4625 tươi dao động ở mức 7.700 - 7.900 đồng/kg.
![]() |
Bảng giá nếp hôm nay 19/6/2025 |
Mặt hàng phụ phẩm
Mặt hàng phụ phẩm giảm nhẹ so với phiên hôm qua. Cụ thể, giá cám giảm 100 đồng/kg, xuống mức 8.000 – 9.000 đồng/kg. Trong khi giá tấm duy trì ở mức 7.200 – 7.400 đồng/kg; giá trấu ổn định ở mức 1.000 - 1.150 đồng/kg.
![]() |
Bảng giá phụ phẩm hôm nay 19/6/2025 |
Giá lúa trong nước
Ghi nhận tại nhiều địa phương hôm nay, lúa Hè Thu giao dịch mua bán khởi sắc, giá lúa tươi tăng nhẹ. Tại Đồng Tháp, thương lái hỏi mua lúa Hè Thu khá, giá tăng nhẹ. Tại Cần Thơ, thương lái hỏi mua trở lại, cho giá mua cao hơn.
Tại An Giang, nông dân chào bán lúa Hè Thu khá, thương lái hỏi mua mới nhiều hơn, giá một số mặt hàng lúa tươi đảo chiều tăng trở lại. Tại Kiên Giang, thương lái hỏi mua nhiều trở lại cho giá nhích, giao dịch khởi sắc.
Theo cập nhật từ Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang, giá lúa hôm nay biến động không đồng nhất so với hôm qua. Cụ thể, giá lúa OM 5451 (tươi) tăng nhẹ 100 đồng/kg, lên mức 5.800 – 6.000 đồng/kg; lúa OM 380 (tươi) tăng 200 đồng/kg, lên 5.300 – 5.600 đồng/kg. Ở chiều ngược lại, lúa IR 50404 giảm 100 đồng/kg, về mức 5.300 – 5.500 đồng/kg.
![]() |
Bảng giá lúa hôm nay 19/6/2025 |
Các giống lúa khác như Đài Thơm 8 (tươi), OM 18 (tươi), Nàng Hoa 9 và nếp IR 4625 (tươi) vẫn giữ giá ổn định so với phiên hôm qua 18/6.
Tại thị trường xuất khẩu
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), giá gạo xuất khẩu của Việt Nam hôm nay không thay đổi. Cụ thể, giá gạo 25% tấm và 100% tấm cùng giảm 1 USD/tấn, xuống lần lượt ở mức 361 USD/tấn và 317 USD/tấn; gạo 5% tấm hôm nay được báo giá ở mức 387 USD/tấn, tăng nhẹ 1 USD/tấn so với ngày hôm trước.
Ngược lại, giá gạo 5% tấm của Thái Lan tiếp tục giảm thêm 1 USD/tấn, xuống còn 396 USD/tấn.
Tại Ấn Độ và Pakistan, giá giao dịch gạo 5% tấm tiếp tục đi ngang ở mức 381 USD/tấn và 392 USD/tấn.
Trong bối cảnh thị trường nội địa Nhật Bản đối mặt với giá gạo tăng cao và nguồn cung suy giảm, hai quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới Việt Nam và Thái Lan đang nhìn thấy cơ hội lớn từ giống gạo Japonica. Không chỉ đáp ứng khẩu vị truyền thống của người Nhật, Japonica còn mở ra dư địa xuất khẩu nhờ làn sóng ẩm thực washoku lan rộng toàn cầu.
Việt Nam vừa có bước đi mang tính biểu tượng: Xuất khẩu 500 tấn gạo Việt xanh phát thải thấp sang Nhật Bản. Đây là giống Japonica thân thiện với môi trường, có khả năng giảm phát thải khí nhà kính trong quá trình canh tác, phù hợp với tiêu chí xanh, sạch và nghiêm ngặt của thị trường Nhật. Theo Chủ tịch VIETRISA Bùi Bá Bổng, Nhật Bản đang thiếu hụt nguồn cung và Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành đối tác chiến lược trong việc cung cấp ổn định loại gạo chất lượng cao này.
Trong khi đó, Thái Lan đang khẩn trương chuyển hướng từ gạo Indica sang Japonica. Dù xuất khẩu gạo sang Nhật đã tăng hơn 1,3 lần trong thập kỷ qua, nhưng để giữ được lợi thế, Thái Lan cần tiến xa hơn ở phân khúc cao cấp – nơi Japonica là tâm điểm.
Tuy nhiên, cạnh tranh không dễ dàng. Mức thuế 341 yên/kg với lượng gạo vượt hạn ngạch vẫn là rào cản lớn. Song, việc giá nhập khẩu vẫn rẻ hơn gạo nội địa khiến các công ty Nhật tiếp tục đẩy mạnh mua vào. Điều này tiềm ẩn rủi ro tạo nên làn sóng phản ứng từ nông dân Nhật.
Với chất lượng, chiến lược và thời điểm phù hợp, hạt gạo Đông Nam Á không chỉ là lương thực, mà đang trở thành “đại sứ văn hóa” trong hành trình chinh phục bàn ăn xứ sở mặt trời mọc.