Bộ Tài chính đề xuất thay đổi mức thuế nhóm Vật tư, nguyên liệu, bán thành phẩm trong Biểu thuế xuất khẩu. Ảnh: Internet.
Theo Bộ Tài chính, trước khi Nghị định số 57/2020/NĐ-CP ban hành, pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu chỉ quy định nhóm có số thứ tự (STT) 211 là: “Vật tư, nguyên liệu, bán thành phẩm (gọi chung là hàng hóa) không quy định có giá trị tài nguyên, khoáng sản cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên” mà không chi tiết cụ mã số, mô tả hàng hóa của các mặt hàng thuộc nhóm này.
Để đảm bảo thu đúng, thu đủ thuế, hạn chế gian lận thương mại, tại Nghị định số 57/2020/NĐ-CP đã chi tiết cụ thể 7 nhóm mặt hàng có tổng giá trị tài nguyên khoáng sản cộng chi phí năng lượng từ 51% giá thành sản phẩm trở lên hoặc khoáng sản chỉ được chế biến ở một mức độ nhất định (ví dụ như clanke xi măng) thuộc STT 211 với mức thuế suất thuế xuất khẩu 5%.
Tuy nhiên, do được chi tiết tại nhóm “Vật tư, nguyên liệu, bán thành phẩm (gọi chung là hàng hóa) không quy định ở trên có giá trị tài nguyên, khoảng sản cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên” nên dẫn đến cách hiểu là 7 mặt hàng trên mặc dù đã chi tiết cụ thể tên gọi nhưng vẫn phải tính toán tỷ lệ giá trị tài nguyên, khoáng sản cộng với chi phí năng lượng trong giá thành sản phẩm để áp dụng thuế suất thuế xuất khẩu 5% (nếu tỷ lệ từ 51% trở lên) hoặc 0% (nếu tỷ lệ dưới 51%). Qua công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan Hải quan, 7 mặt hàng nêu trên đều là khoáng sản thô có giá trị tài nguyên, khoảng sản lớn hơn 51% giá thành sản phẩm.
Chính vì vậy, để hạn chế gian lận trong việc kê khai, xác định tỷ lệ giá trị tài nguyên, khoáng sản trong giá thành sản phẩm và giảm thiểu thủ tục cho cơ quan hải quan và doanh nghiệp trong quá trình làm thủ tục hải quan, Bộ Tài chính trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 2 Nghị định số 57/2020/NĐ-CP quy định cụ thể các mặt hàng đã được chi tiết cụ thể mã số và mô tả hàng hóa thuộc nhóm có STT 211 thì áp dụng thuế xuất khẩu tương ứng quy định tại nhóm này mà không phải xác định giá trị tài nguyên, khoáng sản cộng với chi phí năng lượng trong tổng giá thành sản phẩm.
Cụ thể, sửa đổi Điều 4 về biểu thuế xuất khẩu theo danh mục mặt hàng chịu thuế. Theo đó, biểu thuế xuất khẩu theo danh mục mặt hàng chịu thuế quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định này gồm mã hàng, mô tả hàng hoá, mức thuế suất thuế xuất khẩu quy định cho từng nhóm mặt hàng, mặt hàng chịu thuế xuất khẩu. Trường hợp hàng hóa xuất khẩu không có tên trong Biểu thuế xuất khẩu thì người khai hải quan khai mã hàng của hàng hoá xuất khẩu tương ứng với mã hàng 8 chữ số của hàng hóa đó theo Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi quy định tại Mục I Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định này và không phải khai thuế suất trên tờ khai hàng hoá xuất khẩu.
Đối với các mặt hàng đã được chi tiết cụ thể mã hàng theo 8 chữ số và mô tả hàng hóa tại STT 211 của Biểu thuế xuất khẩu thì người khai hải quan kê khai mức thuế suất tương ứng với mã hàng đó quy định tại STT 211 và không phải xác định tỷ lệ tổng giá trị tài nguyên, khoáng sản cộng với chi phí năng lượng trong tổng giá thành sản xuất sản phẩm quy định tại điểm c khoản 1 Điều này.
Đối với các mặt hàng chưa được chi tiết cụ thể mã hàng theo 8 chữ số và mô tả hàng hóa tại STT 211 của Biểu thuế xuất khẩu thì người khai hải quan khai mã hàng xuất khẩu tương ứng với mã hàng 8 chữ số của hàng hóa đó theo Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi quy định tại Mục I Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định này và ghi mức thuế suất thuế xuất khẩu là 5% nếu đáp ứng đồng thời cả 2 điều kiện sau:
Điều kiện thứ nhất, vật tư, nguyên liệu, bán thành phẩm (gọi chung là hàng hoá) không thuộc các nhóm có STT từ 1 đến STT 210 tại Biểu thuế xuất khẩu.
Điều kiện hai là được chế biến trực tiếp từ nguyên liệu chính là tài nguyên, khoảng sản có tổng giá trị tài nguyên, khoáng sản cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản xuất sản phẩm trở lên. Việc xác định tổng giá trị tài nguyên, khoáng sản cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản xuất sản phẩm trở lên thực hiện theo quy định tại Nghị định số 100/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Quản lý thuế và Nghị định số 146/2017/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 100/2016/NĐ-CP.
Cùng với đó, hàng hóa xuất khẩu thuộc các trường hợp loại trừ quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị định số 146/2017/NĐ-CP không thuộc nhóm có STT 211 của Biểu thuế xuất khẩu ban hành kèm theo Nghị định này.
Theo Tạp chí Hải quan