Thưa ông, quan điểm của ông thế nào về việc đánh giá ổn định việc làm là ổn định nền kinh tế?
Đại biểu Nguyễn Văn Thân: Ổn định việc làm là ổn định nền kinh tế. “Dân có giàu thì nước mới mạnh” – Quan điểm ấy xuyên suốt mọi thời đại, đúng với tất cả các quốc gia, dân tộc. Chẳng thế mà tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn “lấy dân làm gốc” - Tư tưởng đó mãi soi sáng công việc của Đảng và Nhà nước ta trong việc vận dụng, điều hành trên tất cả các lĩnh vực từ chính trị cho đến kinh tế, văn hóa, giáo dục…
Năm 2014, khi Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội, Tổng cục Thống kê và tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) công bố cả nước có 162.000 cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp đã khiến dư luận lúc giờ không khỏi bàng hoàng. Không chỉ có những ngành khoa học, xã hội mà ngay cả những ngành quản lý, kế toán, tài chính... cũng xảy ra tỷ lệ thất nghiệp rất cao.
Phân tích về nguyên nhân tình trạng thất nghiệp nêu trên, các chuyên gia cho rằng, tỷ lệ thất nghiệp cao như vậy chủ yếu là do sự suy thoái nền kinh tế. Vì thế, công tác định hướng nghề cho thanh niên, giảm sự "lệch pha" giữa hệ thống đào tạo với nhu cầu thực tế cần được coi là giải pháp cần thiết để tạo sự bứt phá.
Theo một số học thuyết đang thịnh hành gần đây ở các nước phương Tây cho rằng: “Chỉ số việc làm là thước đo sức khỏe kinh tế thay vì trước đây chỉ dùng GDP và lạm phát”, quan điểm ông về vấn đề này thế nào?
Đại biểu Nguyễn Văn Thân: Ở các nước như Mỹ, chỉ số thất nghiệp được xem là thước đo chính của nền kinh tế. Chính sách kinh tế có thành công hay không cũng được đo bằng chỉ số thất nghiệp. Nhưng để giải quyết tình trạng thất nghiệp lại phụ thuộc chủ yếu vào thành phần doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Ông cho rằng doanh nghiệp nhỏ và vừa có vai trò quan trọng trong việc giải quyết vấn đề việc làm. Vậy tại sao lại như vậy?
Đại biểu Nguyễn Văn Thân: Chúng ta quay lại lịch sử để hiểu rõ hơn về vấn đề này. Năm 2009 tại Trung Quốc đã có khoảng 40% doanh nghiệp vừa và nhỏ phải đóng cửa. 40% doanh nghiệp vừa và nhỏ khác đang sống dở chết dở. Bấy giờ, một Giáo sư trường Đại học La Val của Canada nhận định, hàng loạt các doanh nghiệp vừa và nhỏ ỏ Trung Quốc phải đóng cửa chứng tỏ hệ thống nền kinh tế Trung Quốc đang có vấn đề. Tại thời điểm đó, doanh nghiệp vừa và nhỏ Trung Quốc chiếm 99%/ tổng số lượng doanh nghiệp đăng ký. Đóng góp hơn 60% cho GDP, đóng góp hơn 50% về thuế và cung cấp 75% công ăn việc làm ở đô thị.
Nhận thấy tầm quan trọng của doanh nghiệp nhỏ và vừa, rất nhiều các quốc gia trên thế giới đều quan tâm đến vấn đề suy thoái nền kinh tế thị trường. Vì nó là yếu tố sống còn và phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sự lớn mạnh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng xem như thước đo tốc độ phát triển kinh tế của một quốc gia khi trở thành “hạt nhân” quan trọng trong việc giải quyết vấn đề công ăn việc làm của quốc gia đó.
Giáo sư trường Đại học Indiana Mỹ từng nhận định, doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng tạo ra cơ hội việc làm. Một doanh nghiệp vừa và nhỏ có là gì đâu, nhưng nó tạo ra việc làm cho 10-40 lao động, thế là mọi người có việc làm. Kinh tế quan trọng nhưng việc làm còn quan trọng hơn.
Quay trở lại Việt Nam, chúng ta có thể thấy: vẫn trình độ đại học đấy, vẫn chất lượng giáo dục đấy, ngày hôm qua thì có việc làm, sang ngày hôm sau lại không có việc, thì nguyên nhân "chính" là do nền kinh tế có sự suy thoái khi không thể tạo ra công ăn việc làm mới.
Tôi đã từng trả lời báo chí rằng: “Doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm trên 95% tổng số doanh nghiệp đăng ký, tạo ra khoảng 60% GDP, tạo ra hơn 90% việc làm cho người lao động”. Thế mới thấy, doanh nghiệp nhỏ và vừa có vai trò quan trọng thế nào đối với xã hội, đặc biệt là đối với nền kinh tế của một quốc gia.
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê cho biết: Tính chung cả năm 2022, cả nước có 143.200 doanh nghiệp rút lui khỏi thì trường. Con số khổng lồ này đa phần phản ánh tình trạng khó khăn của nền kinh tế. Chúng ta cứ tính đơn giản trung bình mỗi doanh nghiệp khoảng 30 lao động, với 143.200 doanh nghiệp thì đã có tới bao nhiêu người lao động mất việc làm…
Nước ta đã có nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, hỗ trợ công tác phân tích, quy hoạch phát triển, dự đoán tình hình việc làm. Mục đích cũng là để các doanh nghiệp phát triển ổn định trước sự biến động của nền kinh tế thị trường. Từ chính sách nêu trên, chúng ta có thể thấy, Chính phủ rất quan tâm đến sự “sống còn và phát triển” của doanh nghiệp nhỏ và vừa và vấn đề việc làm của người lao động.
Một trong những chính sách của nhà nước là quản lý Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp nhằm chi trả trợ cấp thất nghiệp cho người lao động khi thất nghiệp, giúp họ có một khoản tiền hỗ trợ trong cuộc sống lúc không có việc làm. Theo ông, điều đó có thể coi Quỹ BHTN như là "điểm tựa" của hàng triệu lao động bị mất việc làm không?
Đại biểu Nguyễn Văn Thân: Mục tiêu chính của chính sách bảo hiểm thất nghiệp là giúp người lao động quay lại thị trường lao động một cách hiệu quả nhất. Quỹ dành cho người đang trong thị trường lao động, vì thế, được bố trí nằm ở hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm trên cả nước. Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp là giảm sốc của thị trường lao động, giúp thị trường lao động vận hành, góp phần bảo đảm an sinh xã hội cho người lao động.
Nghị quyết 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội đã đặt mục tiêu cụ thể về chính sách bảo hiểm thất nghiệp. Cụ thể, giai đoạn đến năm 2025, khoảng 35% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Tỷ lệ này được nâng lên khoảng 45% lực lượng lao động trong độ trong giai đoạn đến năm 2030.
Tới hết năm 2022, số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp trên toàn quốc vượt mốc hơn 14,3 triệu người, đạt 31,18% lực lượng lao động trong độ tuổi. Trong khi đó, số liệu từ Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho thấy, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ở nước ta năm 2022 đạt 51,7 triệu người.
Như vậy, dư địa dành cho phát triển số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp còn rất lớn.
Thực tế cho thấy Quỹ BHTN trong bối cảnh ảnh hưởng của dịch COVID-19 hiện nay đã kịp thời, hiệu quả trong đảm bảo thu nhập, hỗ trợ thu nhập cho một số lượng lớn người lao động nghỉ hưu, nghỉ ốm đau, thai sản, bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, trợ cấp thất nghiệp khi bị mất việc làm, hỗ trợ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ kỹ năng nghề đề duy trì việc làm cho người lao động.
Quỹ BHTN không hoàn toàn mang bản chất là quỹ tài chính ngắn hạn mà kết dư các quỹ này còn là nguồn lực về tài chính quan trọng của quốc gia để phòng ngừa, hỗ trợ chủ sử dụng lao động và người lao động trong trường hợp cấp bách, phi truyền thống như tình hình dịch COVID-19 vừa qua khi được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho phép.
Ông đã đề cập đến chính sách bảo hiểm thất nghiệp và mục tiêu nâng tỷ lệ tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Ông nghĩ giải pháp nào sẽ hoàn thiện cho chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam?
Đại biểu Nguyễn Văn Thân: Trước hết, cần hoàn thiện hệ thống, chính sách pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp.
Tiếp đó là tăng cường, đẩy mạnh các hoạt động thông tin, tuyên truyền bằng nhiều hình thức phong phú và phù hợp để nâng cao hơn nữa nhận thức của người lao động, người sử dụng lao động và các cơ quan, ban ngành trong việc thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp nhằm rà soát, phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật, trục lợi về bảo hiểm thất nghiệp để có các biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời.
Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thực hiện bảo hiểm thất nghiệp. Xây dựng cơ sở dữ liệu về bảo hiểm thất nghiệp, thực hiện chia sẻ, kết nối dữ liệu thu, chi bảo hiểm thất nghiệp giữa ngành bảo hiểm xã hội với dữ liệu tiếp nhận, giải quyết hưởng các chế độ bảo hiểm thất nghiệp của ngành lao động-thương binh và xã hội.
Cuối cùng, cải tiến mô hình tổ chức thực hiện bảo hiểm thất nghiệp, nâng cao năng lực của các cán bộ thực hiện bảo hiểm thất nghiệp, đặc biệt là kỹ năng tư vấn giới thiệu việc làm, kỹ năng đào tạo nghề và các kỹ năng mềm đối với người lao động.
Xin cảm ơn ông về những chia sẻ!
An Anh (Thực hiện