Năm 2020, toàn thế giới ghi nhận hơn 300 tỷ USD huy động vốn thông qua niêm yết, bao gồm con số kỷ lục đối với ngành bảo hiểm nước Mỹ năm ngoái, bất chấp suy thoái kinh tế do ảnh hưởng đại dịch. Một phần lớn các giao dịch ngành bảo hiểm trên thông qua các công ty có mục đích đặc biệt SPAC, phương tiện đầu tư được giao dịch công khai hợp nhất với một công ty hiện có nhằm ra mắt công chúng. Theo Goldman Sachs, các đợt ra mắt công chúng của SPAC đã huy động tổng cộng 78 tỷ USD trên 244 giao dịch toàn cầu năm 2020, đánh dấu mức tăng 5 lần kể từ năm trước đó.
Startup có giá trị nhất khu vực Đông Nam Á là Grab cũng thực hiện niêm yết trên Nasdaq thông qua SPAC Altimeter Growth Corp ước tính định giá 40 tỷ USD. “Quả bom” SPAC đã gây dấu ấn mạnh mẽ trên thị trường IPO trong những năm gần đây và xuyên suốt thời kỳ dịch bệnh. Các công ty có xu hướng tư nhân hóa nhất có thể trong bối cảnh vốn đầu tư mạo hiểm và dòng tiền cổ phần tư nhân dồi dào. Sự thay đổi trên đặt ra câu hỏi mối quan tâm đối với vốn cổ phần tư nhân khu vực công hay tư nhân sẽ làm nên lịch sử.
Đối với startup, định giá công khai, đặc biệt ngành công nghệ đã đạt mốc cao kỷ lục với giá IPO trung bình gấp 24 lần trong năm 2020. Hiện tượng này đã thu hút những mục tiêu mới cho SPAC là các công ty còn non trẻ, chưa có con đường lợi nhuận rõ ràng và hay thua lỗ. Tính ổn định của các xu hướng trên có ý nghĩa lớn đối với thị trường tài chính và cảnh báo những nguy cơ tiềm ẩn của SPAC. Rủi ro của SPAC đến từ đặc tính "loãng vốn" của mô hình này. Một nghiên cứu gần đây của Standford chỉ ra trung bình SPAC chỉ giữ lại 66,7% số tiền huy động được trong đợt ra mắt tại thời điểm sáp nhập sau khi đền bù cho các nhà tài trợ và nhà đầu tư ban đầu. Các phương pháp như vậy mang lại lợi nhuận lớn cho nhà đầu tư nhưng để lại lỗ hỏng lớn được chứng minh tương quan với hiệu suất kém sau sát nhập. Bản chất kín kẽ và khả năng mục tiêu vượt qua thẩm định nghiêm ngặt của IPO đã giúp SPAC tránh khỏi giám sát của công chúng tuy nhiên khi sự kiện không còn sức nóng, các nhà đầu tư nhận ra giá trị thật của các thương vụ sát nhập, giá cổ phiếu thường có chiều hướng đi xuống.
Một nguy cơ khác bắt nguồn từ cách phần lớn các SPAC hiện đang được cấu trúc làm phát sinh hai nhóm nhà đầu tư với các động lực và lập trường đối lập. Nhóm các nhà đầu tư “sớm” có xu hướng mua lại SPAC khi các quỹ đầu cơ và một số công ty cổ phần tư nhân rút lui tại thời điểm sáp nhập để chốt lợi nhuận dương. Nhóm các nhà đầu tư “muộn” thường nắm giữ cổ phần thông qua sát nhập và chịu tỷ suất lợi nhuận kém trong ngắn hạn hoặc thời gian trung bình. Trong số 89 thương vụ ra mắt công chúng của SPAC đã hoàn thành sát nhập từ năm 2015 đến tháng 6 năm 2020, lợi nhuận trung bình đã gây thất vọng với -36,1% so sánh với lợi nhuận trung bình sau IPO trên sàn Nasdaq cùng kỳ.
Bỏ qua các rủi ro, SPAC được đánh giá là phương tiện vay vốn hiệu quả đối với doanh nghiệp trẻ. Đại dịch đã thúc đẩy bùng nổ công nghệ cũng như buộc nhiều ngành công nghiệp phải thay đổi. Trong bối cảnh các quỹ đầu tư mạo hiểm đạt mức tăng kỷ lục tại các lĩnh vực như sức khỏe, làm việc từ xa và thương mại điện tử, vai trò và nhu cầu tìm đến SPAC vẫn tiếp tục tăng trong tương lai. Tại Đông Nam Á, nơi các hoạt động ECM hay IPO truyền thống diễn ra chậm chạp, SPAC ngược lại có thể tạo sự tín nhiệm cho các startup tỏng khu vực để khai thác thị trường vốn. Ví dụ như trường hợp của Grab, sát nhập SPAC sẽ trao quyền cho nhà sáng lập ứng dụng chạy xe Anthony Tan với 60,4% quyền biểu quyết với 2,2% cổ phần tài chính. Trên thực tế, khi các nhà đầu tư tìm thấy nhiều cơ hội ở các khu vực khác của thị trường, sự nhiệt tinh đối với các đợt ra mắt công chúng của SPAC sẽ suy giảm và nếu không thay đổi các hoạt động, SPAC khó mà duy trì được sức nóng.
TL