Để chống chuyển giá thông qua hoạt động vay nợ, cấp dịch vụ tài chính giữa công ty mẹ với công ty con và giữa các công ty liên kết, nhiều nước trên thế giới quy định về vốn mỏng thế nào, thưa ông?
Vốn mỏng nghĩa là doanh nghiệp hoạt động chủ yếu dựa vào vốn đi vay, tỷ lệ vốn vay/vốn chủ sở quá cao. Hiện trên thế giới, nhiều nước quy định về vốn mỏng, theo đó phần lãi phải trả đối với phần vốn vay vượt quá tỷ lệ nhất định (tỷ lệ vốn vay/vốn chủ sở hữu) không được coi là chi phí được trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN). Cụ thể, New Zealand, Đức, Australia, Nhật Bản, Ba Lan, Hà Lan, Tây Ban Nha, Chile, Peru, Nam Phi, Bồ Đào Nha, Brazil… quy định vốn vay của doanh nghiệp/vốn chủ sở hữu vượt quá tỷ lệ 3/1 thì được coi là vốn mỏng.
Nhiều nước khác khống chế tỷ lệ vốn vay/vốn chủ sở hữu thấp hơn như Canada là 2/1; Pháp, Mỹ là 1,5/1. Trung Quốc quy định tỷ lệ 2/1 đối với doanh nghiệp thông thường và 5/1 đối với các tổ chức tài chính...
Việt Nam hiện chưa có quy định về vốn mỏng, ông có cho rằng, đây chính là kẽ hở để doanh nghiệp chuyển giá?
Luật Thuế TNDN hiện hành chỉ quy định không tính vào chi phí hợp lý, được trừ đi khi xác định thu nhập chịu thuế đối với phần chi trả lãi tiền vay vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh (trừ tổ chức tín dụng) vượt quá 150% mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố. Luật Thuế TNDN không khống chế khoản chi phí lãi tiền vay đối với trường hợp khoản vay vượt quá nhiều lần vốn chủ sở hữu.
Chính vì vậy, nhiều doanh nghiệp có khoản vay vượt gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu đã dẫn đến nguy cơ mất an toàn tài chính của doanh nghiệp và cũng là một trong những yếu tố làm ảnh hưởng đến thu ngân sách do doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vay vốn từ công ty mẹ, công ty liên kết quá lớn, phải trả lãi tiền vay quá lớn, thậm chí có doanh nghiệp chi phí trả lãi tiền vay vốn lên đến vài nghìn tỷ đồng/năm dẫn đến thua lỗ. Điều này giải thích vì sao hàng loạt doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thua lỗ trong khi doanh thu hàng năm luôn tăng trưởng ở mức hai con số và không ngừng mở rộng quy mô hoạt động.
Trước thực trạng nhiều doanh nghiệp vay nợ quá nhiều dẫn đến mất an toàn về tài chính, cả doanh nghiệp nhà nước lẫn doanh nghiệp dân doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là lợi dụng việc không khống chế tỷ lệ vốn vay/vốn chủ sở hữu, nhiều doanh nghiệp đầu tư nước ngoài và cả doanh nghiệp trong nước chuyển giá để tối đa hóa lợi nhuận, nên khi sửa đổi, bổ sung Luật Thuế TNDN vào năm 2013, Bộ Tài chính đề nghị quy định về vốn mỏng. Theo đó, kể từ ngày 1/1/2018, không tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN đối với phần chi trả lãi vay của khoản vay vốn vượt quá 5 lần vốn chủ sở hữu, đối với một số lĩnh vực đặc thù như tín dụng, ngân hàng được áp dụng tỷ lệ cao hơn nhưng không quá 12 lần vốn chủ sở hữu. Rất tiếc là đề xuất này chưa được chấp thuận.
Và hậu quả là gì?
Tỷ lệ doanh nghiệp đang hoạt động khai báo lỗ hàng năm, khai báo lỗ lũy kế quá lớn. Chỉ riêng khu vực doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, hàng năm có khoảng 50% số doanh nghiệp khai báo lỗ; khoảng 60% số doanh nghiệp khai báo có lỗ lũy kế. Tuy nhiên, khi tiến hành thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp kê khai lỗ, cơ quan thuế phát hiện nguyên nhân lỗ chủ yếu do chuyển giá, trong đó có việc chuyển giá qua hoạt động vay vốn, cung cấp tài chính giữa công ty mẹ ở nước ngoài với công ty con, giữa các công ty có quan hệ liên kết với nhau.
Điều đáng nói là, tình trạng chuyển giá ngày càng diễn biến phức tạp, nghiêm trọng hơn. Cụ thể, năm 2011, cơ quan thuế thanh tra tại 1.276 doanh nghiệp đầu tư nước ngoài kê khai lỗ đã xử lý giảm lỗ 4.400 tỷ đồng, truy thu, truy hoàn và phạt hơn 1.650 tỷ đồng (gấp 4 lần năm 2010). Năm 2017, cơ quan thuế thanh tra 1.288 doanh nghiệp FDI khai báo lỗ, về số lượng không nhiều hơn so với năm 2011 là bao nhiêu, nhưng đã xử lý giảm lỗ 6.812 tỷ đồng; truy thu, truy hoàn và phạt 3.085 tỷ đồng.
Tới đây, Bộ Tài chính sẽ sửa đổi Luật Thuế TNDN, theo ông có cần thiết phải quy định về vốn mỏng?
Theo khuyến nghị của OECD, các nước nên áp dụng tỷ lệ vốn vay/vốn chủ sở hữu là 3/1 là hợp lý nhằm tránh tình trạng doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy nợ quá cao, hoạt động chủ yếu bằng tiền đi vay, không chỉ ảnh hưởng đến vấn đề thu ngân sách, mà còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng động cơ tìm kiếm rủi ro vì khi đầu tư bằng tiền của người khác, phải đi vay nợ quá nhiều, doanh nghiệp luôn tìm cách đầu tư vào các kênh có lợi nhuận cao hơn như bất động sản, chứng khoán, công cụ tài chính… nhưng mức độ rủi ro rất lớn.
OECD chỉ đưa ra khuyến nghị, còn áp dụng cụ thể thế nào cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam thì phải tiếp tục nghiên cứu. Để đảm bảo phản ánh đúng chi phí lãi vay phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp phần thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế, giảm nợ xấu, lành mạnh hoá tài chính doanh nghiệp và chống chuyển giá, theo tôi, cần thiết phải có quy định về vốn mỏng. Trong kinh tế học có phần nghiên cứu về “lý thuyết cơ cấu vốn tối ưu”. Vì vậy, cần phải nghiên cứu rất kỹ khi đưa ra quy định tỷ lệ vốn vay/vốn chủ sở hữu áp dụng cụ thể cho từng lĩnh vực như thương mại, sản xuất, dịch vụ, tài chính, ngân hàng, đầu tư cơ sở hạ tầng...
Mạnh Bôn