![]() |
Kẹo cau đang được nhập khẩu từ Trung Quốc để phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước |
Một thực tế đang diễn ra: Việt Nam – quốc gia có vùng trồng cau và dừa thuộc hàng lớn nhất thế giới – lại đang nhập khẩu mạnh hai loại nông sản này dưới dạng chế biến. Một mặt là kim ngạch xuất khẩu vượt mốc tỷ USD, mặt khác là con số nhập khẩu tăng gấp chục lần chỉ trong vài tháng. Câu hỏi đặt ra: điều gì đang diễn ra dưới lớp vỏ lấp lánh của những con số tăng trưởng?
Chỉ trong 4 tháng đầu năm, Việt Nam đã chi hơn 11 triệu USD nhập khẩu cau chế biến, tăng 14 lần so với cùng kỳ, và gần 7,2 triệu USD cho dừa chế biến, tăng hơn 11 lần. Điều trớ trêu là cau và dừa vốn là hai sản phẩm mà Việt Nam có lợi thế lớn về sản lượng – với 200.000 ha dừa, sản lượng 2 triệu tấn mỗi năm, và hàng nghìn ha trồng cau tập trung ở Quảng Ngãi.
Lý giải cho nghịch lý này, các chuyên gia ngành hàng cho biết: do thiếu hụt nguyên liệu đạt chuẩn chế biến và xuất khẩu, thiếu nhà máy chế biến chuyên sâu, cùng với giá nguyên liệu nội địa tăng cao, các doanh nghiệp buộc phải tìm đến nguồn cung nước ngoài.
Song lý do sâu xa hơn không nằm ở con số mà ở cấu trúc phát triển thiếu đồng bộ của ngành nông nghiệp Việt Nam – nơi trồng nhiều nhưng không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, sản xuất lớn nhưng thiếu công nghiệp hóa và đầu tư chế biến mới chỉ ở bề nổi.
Trong khi cau trong nước chủ yếu được xuất khẩu thô, thì kẹo cau – sản phẩm chế biến có giá trị cao – lại đang được nhập khẩu từ Trung Quốc để phục vụ người tiêu dùng trong nước và kiều dân Trung Quốc tại Việt Nam. Dừa cũng tương tự: nước dừa, cơm dừa, dừa khô nhập khẩu từ Philippines, Indonesia, Sri Lanka... đang là nguyên liệu đầu vào cho các nhà máy trong nước sản xuất sữa dừa, than dừa – những mặt hàng chủ lực xuất khẩu.
Tình trạng này phản ánh lỗ hổng lớn về công nghệ chế biến và chuẩn hóa vùng nguyên liệu, dẫn tới việc Việt Nam phải “xuất thô – nhập tinh”, đánh mất giá trị gia tăng ngay trên chính những sản phẩm mình có lợi thế.
Khi Mỹ mở cửa nhập khẩu dừa tươi Việt Nam từ tháng 8/2023, xuất khẩu tăng gấp 11 lần chỉ sau vài tháng. Trung Quốc cũng trở thành thị trường trọng điểm với nhu cầu tiêu thụ hàng tỷ quả mỗi năm. Song bài toán đặt ra là: liệu nông dân có thực sự được hưởng lợi từ sự tăng trưởng này, hay chỉ là những doanh nghiệp có đủ tiềm lực về tài chính, công nghệ, và quan hệ thị trường mới có thể chen chân?
Nếu không có chiến lược tổng thể từ vùng trồng, liên kết sản xuất – chế biến – tiêu thụ, thì chính người nông dân sẽ mãi là mắt xích yếu nhất trong chuỗi giá trị toàn cầu, dễ tổn thương trước biến động giá, dịch bệnh và cả chính sách thương mại.
Cau và dừa chỉ là hai trong nhiều ví dụ phản ánh một sự thật không dễ chịu: nông nghiệp Việt Nam dù nhiều tiềm năng, nhưng vẫn đang đứng trước ngưỡng cửa của một cuộc tái cấu trúc bắt buộc. Nếu muốn trở thành một quốc gia “nông nghiệp mạnh” đúng nghĩa, Việt Nam cần chuyển từ tư duy sản lượng sang tư duy giá trị – lấy công nghệ, chuẩn hóa và chuỗi cung ứng toàn cầu làm trụ cột phát triển.
Và điều đó không thể chỉ trông chờ vào thị trường hay nông dân tự xoay xở. Nó đòi hỏi chính sách đồng bộ, đầu tư bài bản, và quan trọng nhất: một cách nhìn mới về vai trò của người nông dân – không phải là “người cung cấp nguyên liệu”, mà là tác nhân chính trong chuỗi sáng tạo giá trị nông nghiệp.
Một trong những nguyên nhân chính khiến Việt Nam gia tăng nhập khẩu các sản phẩm từ dừa và cau là do nhu cầu từ thị trường EU đối với các sản phẩm chế biến ngày càng cao, trong khi nguồn nguyên liệu nội địa không đủ để đáp ứng yêu cầu cả về số lượng lẫn chất lượng. Bên cạnh đó, tình trạng nguồn cung trong nước khan hiếm đã đẩy giá dừa nội địa lên mức cao, buộc các doanh nghiệp phải tìm kiếm nguồn thay thế từ các quốc gia như Philippines, Indonesia và Sri Lanka. Hiện nay, nước dừa, cơm dừa và dừa khô từ các thị trường này đang được nhập khẩu vào Việt Nam để phục vụ sản xuất các sản phẩm xuất khẩu như sữa dừa và than dừa. Đối với sản phẩm cau chế biến, Việt Nam hiện vẫn chưa có nhà máy chế biến quy mô lớn, dù có vùng trồng rộng khắp, dẫn đến việc cau vẫn chủ yếu được xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu thô. Trong khi đó, kẹo cau – sản phẩm có giá trị gia tăng cao – lại đang được nhập khẩu từ Trung Quốc để phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước, đặc biệt là người Trung Quốc sinh sống tại Việt Nam, hoặc để làm quà biếu tặng. Theo ông Đặng Phúc Nguyên – Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam |