![]() |
Quốc hội Khoá XV bấm nút thông qua Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo |
Với 435/438 đại biểu Quốc hội tán thành, Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo chính thức được thông qua vào ngày 27/6 với 73 điều, có hiệu lực từ ngày 1/10/2025. Không chỉ là một văn bản pháp lý, Luật được kỳ vọng là cú hích thể chế mang tính cách mạng, mở ra kỷ nguyên phát triển mới cho nền kinh tế tri thức Việt Nam.
Luật mới ra đời trong một thời điểm đặc biệt khi cả hệ thống chính trị xác định đổi mới sáng tạo là một trong ba đột phá chiến lược. Tư duy xây dựng luật lần này không đơn thuần là sửa đổi những nội dung kỹ thuật cũ, mà là “thiết kế lại” khung thể chế để vận hành một hệ sinh thái sáng tạo mở, liên thông và hướng tới thị trường. Dưới đây là những điểm đột phá mà có trong Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo:
Khác với các lần sửa đổi luật trước đây vốn chỉ tập trung vào kỹ thuật, lần này Luật được "thiết kế lại" với một tư duy hoàn toàn mới là xây dựng một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo mở, liên thông và lấy doanh nghiệp làm trung tâm. Đổi mới sáng tạo lần đầu tiên được pháp điển hóa như một lĩnh vực độc lập, có vị thế tương đương với khoa học và công nghệ trong hệ thống pháp luật quốc gia.
Từ việc hình thành ý tưởng, thử nghiệm đến thương mại hóa, toàn bộ chuỗi đổi mới sáng tạo được luật hóa, tạo nền móng thể chế vững chắc cho một hệ sinh thái sáng tạo lấy thị trường làm định hướng, chấp nhận rủi ro, thúc đẩy sản phẩm ra đời từ nhu cầu thực tế thay vì chỉ từ nghiên cứu lý thuyết.
Luật chuyển đổi mạnh mẽ từ mô hình tiền kiểm sang hậu kiểm, một cách tiếp cận hiện đại, phù hợp với đặc thù linh hoạt và thử nghiệm liên tục của lĩnh vực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Thay vì can thiệp vào đầu vào, luật tập trung vào đánh giá hiệu quả đầu ra, quản lý rủi ro và minh bạch hóa toàn bộ quy trình.
Đáng chú ý, cơ chế “thử nghiệm có kiểm soát” (sandbox) lần đầu tiên được đưa vào luật, cho phép triển khai mô hình hoặc công nghệ mới, như trí tuệ nhân tạo, blockchain, công nghệ y tế hay giáo dục số trong khung pháp lý an toàn, giới hạn thời gian và quy mô, trước khi nhân rộng trên toàn quốc.
Miễn trách nhiệm dân sự, hành chính, thậm chí hình sự khi rủi ro khách quan
Một trong những nội dung mới đáng chú ý của Luật là quy định rõ ràng về chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Theo đó, tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ nếu đã tuân thủ đầy đủ quy trình, quy định và không có hành vi gian lận, vi phạm pháp luật hay sử dụng sai mục tiêu, phạm vi kinh phí thì được miễn trách nhiệm hành chính, dân sự khi gây ra thiệt hại cho Nhà nước. Đồng thời, họ cũng không phải hoàn trả kinh phí nếu kết quả không đạt được mục tiêu đề ra, với điều kiện đã tuân thủ đúng quy định quản lý nhiệm vụ, nội dung nghiên cứu, biện pháp phòng ngừa rủi ro.
Tương tự, người phê duyệt và quản lý nhiệm vụ sử dụng ngân sách nhà nước cũng được loại trừ trách nhiệm nếu không vi phạm pháp luật và đã làm đúng quy trình.
Đặc biệt, Luật quy định loại trừ trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự với những rủi ro xảy ra trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Chính phủ sẽ quy định chi tiết điều này, bao gồm tiêu chí xác định rủi ro được chấp nhận và quy trình đánh giá việc tuân thủ quy trình, quy định pháp luật.
Một điểm đột phá nữa là cơ chế khoán chi linh hoạt trong nghiên cứu. Tổ chức chủ trì được phép khoán đến sản phẩm cuối cùng, toàn quyền điều chỉnh giữa các khoản mục chi và quyết toán tổng số kinh phí. Đồng thời, được phép thuê chuyên gia trong và ngoài nước, sử dụng kinh phí theo thỏa thuận.
Luật cũng tháo gỡ điểm nghẽn lớn nhất tồn tại suốt nhiều năm qua, đó là cơ chế sở hữu kết quả nghiên cứu từ ngân sách nhà nước. Theo đó, tổ chức chủ trì được mặc nhiên giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng mà không cần xin phép lại cơ quan cấp trên. Nhà khoa học được hưởng lợi ích kinh tế từ sản phẩm trí tuệ, tối thiểu 30% thu nhập từ thương mại hóa kết quả nghiên cứu và còn được miễn giảm thuế thu nhập cá nhân từ nguồn thu này.
![]() |
Luật xác lập các chính sách lớn nhằm thúc đẩy phát triển hạ tầng, đặc biệt là các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, trung tâm nghiên cứu trình độ cao tại các cơ sở giáo dục đại học, viện nghiên cứu, gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp. Đặc biệt, hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo được ưu tiên đầu tư tại vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo thông qua phát triển hạ tầng, nhân lực và chuyển giao công nghệ.
Điều này thể hiện rõ vai trò kiến tạo của Nhà nước trong việc phân bổ nguồn lực linh hoạt, minh bạch, xây dựng chiến lược dài hạn, đồng thời trao quyền chủ động cho địa phương trong triển khai sáng kiến phù hợp điều kiện kinh tế - xã hội từng vùng.
Luật đặt nền móng cho một hạ tầng dữ liệu số quốc gia về Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, yêu cầu các tổ chức cập nhật dữ liệu định kỳ, đặc biệt với các đơn vị sử dụng ngân sách công. Cơ sở dữ liệu được chia sẻ rộng rãi, tích hợp giữa các hệ thống, nhằm phục vụ hoạt động nghiên cứu và đổi mới một cách minh bạch, hiệu quả.
Hệ sinh thái sáng tạo được mở rộng vượt ra ngoài khuôn khổ truyền thống. Luật công nhận vai trò của cả cộng đồng công nghệ mở, các tổ chức phi lợi nhuận, các sáng kiến cộng đồng, đổi mới dịch vụ công và mô hình quản trị mới, từ đó huy động sức sáng tạo toàn xã hội thay vì chỉ dựa vào khu vực công.
Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo không chỉ là công cụ pháp lý, mà còn là tuyên ngôn mạnh mẽ về phát triển bằng tri thức, bằng chất lượng con người và sức sáng tạo của dân tộc. Trong bối cảnh kinh tế tri thức lên ngôi, đạo luật này là nền móng để Việt Nam tăng tốc, nâng cao năng lực nội sinh và cạnh tranh bằng hàm lượng chất xám.
Như Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nhận định: “Nếu khoa học và công nghệ là nền tảng, thì đổi mới sáng tạo chính là động lực lan tỏa mạnh mẽ, với tiềm năng đóng góp tới 3/4 trong mức tăng trưởng GDP của toàn ngành”. Không chỉ phục vụ nghiên cứu, luật lần này đặt thị trường làm trung tâm, biến tri thức thành động lực phát triển thực tế và bền vững.