Chính phủ Nhật Bản đang phải đối mặt với tỷ lệ tự túc thấp của đất nước về an ninh lương thực. Nhưng vấn đề thực sự đối với an ninh lương thực của Nhật Bản không phải là tỷ lệ tự túc lương thực thấp. Nhật Bản đang mất và lãng phí các tài sản nông nghiệp của mình, chẳng hạn như nguồn lao động và đất đai.
Tài sản nông nghiệp bị lãng phí
Trong ngành nông nghiệp của Nhật Bản, độ tuổi trung bình của người lao động là trên 65 tuổi . Số lao động nông nghiệp đang giảm 50.000 người mỗi năm và các trang trại trên 400.000 ha hiện đang bị bỏ hoang. Hầu hết nông dân không chỉ kiếm sống bằng nông nghiệp mà còn làm các công việc phụ.
Một số người cho rằng đây không phải là vấn đề vì Nhật Bản, với dân số ngày càng giảm, có thể tiếp tục phụ thuộc vào nhập khẩu lương thực. Tuy nhiên, năng lực sản xuất lương thực vẫn là cốt lõi đối với an ninh lương thực của một quốc gia. Khai thác thị trường xuất khẩu gạo ra nước ngoài sẽ giúp tận dụng hết năng lực sản xuất lương thực của Nhật Bản.
Chính sách 'gentan' của những năm 70
Gạo là lương thực tự cung tự cấp chủ yếu, duy nhất của Nhật Bản. Trái ngược với các mặt hàng lương thực khác, chính phủ Nhật Bản đã hạn chế sản xuất gạo để đối phó với tình trạng dư thừa gạo trong gần 50 năm cho đến tận năm 2018, chính sách đó gọi là 'gentan' - hay chính sách giảm diện tích trồng lúa.
Tình trạng dư thừa xuất hiện do tiêu thụ gạo trong nước giảm, bắt đầu từ những năm 1960. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, người Nhật bắt đầu tiêu thụ nhiều hơn các sản phẩm làm từ lúa mì như bánh mì và mì. Tiêu thụ gạo bình quân đầu người giảm từ 118kg trong năm 1962 xuống còn 50,8kg trong năm 2020. Đại dịch gần đây đã đẩy nhanh xu hướng này do nhu cầu trong ngành dịch vụ ăn uống giảm mạnh.
Chính sách gentan ấn định giới hạn sản xuất gạo cho mỗi tỉnh hàng năm và trợ cấp cho nông dân chuyển đổi cây lúa của họ sang các loại nông phẩm có nguồn cung thấp như lúa mì, thức ăn chăn nuôi và đậu tương. Kể từ khi được áp dụng vào những năm 1970, chính sách này đã kiểm soát sản xuất lúa gạo, biến động giá cả và giá bán tại nông trại.
Mặt khác, chính sách gentan cũng dẫn đến những lời chỉ trích về các khoản trợ cấp hào phóng của chính phủ dành cho nông dân. Các khoản trợ cấp lên tới 1,05 triệu yên (7.250 đô la Mỹ) cho mỗi héc ta trong năm 2016 đã khiến nông dân trồng lúa không được khuyến khích quản lý đồng ruộng đúng cách, tăng năng suất và phát triển các chiến lược cây trồng.
Bất chấp việc bãi bỏ chính sách gentan vào năm 2018, Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản (MAFF) vẫn tiếp tục trợ cấp chuyển đổi cho nông dân trồng lúa. Nhưng các khoản trợ cấp này không bền vững. Một khi chúng ngừng lại, nông dân sẽ mất đi động lực, do nhu cầu gạo trong nước đã giảm khoảng 100.000 tấn mỗi năm.
Thay vào đó, Nhật Bản nên tận dụng tốt hơn các nguồn lực sẵn có và theo đuổi thị trường xuất khẩu gạo. MAFF báo cáo rằng nhu cầu đối với gạo Nhật Bản ngày càng tăng ở những khu vực người dân tiêu thụ gạo hàng ngày, chẳng hạn như Hồng Kông, Trung Quốc và Singapore.
Vấn đề khi nhắm đến thị trường xuất khẩu
Xuất khẩu gạo của Nhật Bản gần đây đang liên tục tăng. Xuất khẩu gạo lứt và gạo đã làm bóng tăng từ 4.515 tấn năm 2014 lên 22.833 tấn năm 2021 - tăng gấp 5 lần trong 7 năm. Một phần ba gạo xuất khẩu của năm 2021 là sang Hồng Kông. Tuy nhiên, tổng lượng xuất khẩu chỉ chiếm chưa đến 0,5% tổng sản lượng gạo trong nước.
Vấn đề lớn nhất là gạo Nhật Bản không cạnh tranh về giá do chi phí sản xuất cao khi canh tác quy mô nhỏ ở vùng bán sơn địa. Ví dụ, các siêu trang trại ở Hoa Kỳ áp dụng phương pháp thuê ngoài các quy trình như gieo hạt và bón phân với chi phí rất hiệu quả.
Sự khác biệt về quy mô canh tác cũng ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng sản xuất. Hầu hết các trang trại lúa gạo của Nhật Bản đều có quy mô nhỏ nên không thể cung cấp ổn định một lượng gạo lớn và sẽ gặp khó khăn trong việc thiết lập các kênh bán hàng.
Một thách thức khác là làm thế nào thúc đẩy nông dân sản xuất để xuất khẩu gạo, trong khi họ đã được chính phủ trợ cấp chuyển đổi rất hào phóng. Mặc dù MAFF đã đưa ra chương trình trợ cấp để cung cấp 0,4 triệu yên (2.850 đô la Mỹ) mỗi héc ta cho sản xuất lúa gạo định hướng xuất khẩu, nhưng nhiều nông dân vẫn chọn chuyển đổi ruộng của họ.
Bước đầu tiên để vượt qua những thách thức này là tạo ra một môi trường thuận lợi cho nông dân xuất khẩu gạo. Tổ chức Ngoại thương Nhật Bản (JETRO) và MAFF hiện đang tổng hợp thông tin xuất khẩu cơ bản như nhu cầu thị trường, thủ tục hải quan và các quy định tại thị trường gạo nước ngoài cho người nông dân quan tâm đến xuất khẩu. Điều này sẽ giúp nông dân chuẩn bị mở rộng quy mô và chuyển sang các giống lúa năng suất cao.
Có thể nói vấn đề cơ bản đối với an ninh lương thực của Nhật Bản là cơ sở nông nghiệp của nước này đang bị mất và lãng phí. Các nhà xuất khẩu của đất nước mặt trời mọc đang tích cực tìm kiếm thị trường nước ngoài có tiềm năng lớn để tận dụng triệt để các nguồn tài nguyên nông nghiệp của quốc gia, cũng đồng thời giảm thiểu nguy cơ mất an ninh lương thực.
Anh Dũng (Tổng hợp theo Yusaku Yoshikawa /Eastasiaforum.org)
Nhật Bản hồi sinh ngành sản xuất gạo - An ninh lương thực hay nhắm đến thị trường xuất khẩu?
Các khủng hoảng quốc tế gần đây như đại dịch COVID-19 và chiến tranh Ukraine đang buộc các quốc gia phải suy nghĩ lại về an ninh lương thực của họ. Trong trường hợp của Nhật Bản, tăng xuất khẩu gạo sẽ giảm thiểu nguy cơ mất an ninh lương thực bằng cách tận dụng tốt hơn các nguồn nông nghiệp sẵn có.
Trong ngành nông nghiệp của Nhật Bản, độ tuổi trung bình của người lao động là trên 65 tuổi - nguồn Eastasiaforum.org
Chính phủ Nhật Bản đang phải đối mặt với tỷ lệ tự túc thấp của đất nước về an ninh lương thực. Nhưng vấn đề thực sự đối với an ninh lương thực của Nhật Bản không phải là tỷ lệ tự túc lương thực thấp. Nhật Bản đang mất và lãng phí các tài sản nông nghiệp của mình, chẳng hạn như nguồn lao động và đất đai.
Tài sản nông nghiệp bị lãng phí
Trong ngành nông nghiệp của Nhật Bản, độ tuổi trung bình của người lao động là trên 65 tuổi . Số lao động nông nghiệp đang giảm 50.000 người mỗi năm và các trang trại trên 400.000 ha hiện đang bị bỏ hoang. Hầu hết nông dân không chỉ kiếm sống bằng nông nghiệp mà còn làm các công việc phụ.
Một số người cho rằng đây không phải là vấn đề vì Nhật Bản, với dân số ngày càng giảm, có thể tiếp tục phụ thuộc vào nhập khẩu lương thực. Tuy nhiên, năng lực sản xuất lương thực vẫn là cốt lõi đối với an ninh lương thực của một quốc gia. Khai thác thị trường xuất khẩu gạo ra nước ngoài sẽ giúp tận dụng hết năng lực sản xuất lương thực của Nhật Bản.
Chính sách 'gentan' của những năm 70
Gạo là lương thực tự cung tự cấp chủ yếu, duy nhất của Nhật Bản. Trái ngược với các mặt hàng lương thực khác, chính phủ Nhật Bản đã hạn chế sản xuất gạo để đối phó với tình trạng dư thừa gạo trong gần 50 năm cho đến tận năm 2018, chính sách đó gọi là 'gentan' - hay chính sách giảm diện tích trồng lúa.
Tình trạng dư thừa xuất hiện do tiêu thụ gạo trong nước giảm, bắt đầu từ những năm 1960. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, người Nhật bắt đầu tiêu thụ nhiều hơn các sản phẩm làm từ lúa mì như bánh mì và mì. Tiêu thụ gạo bình quân đầu người giảm từ 118kg trong năm 1962 xuống còn 50,8kg trong năm 2020. Đại dịch gần đây đã đẩy nhanh xu hướng này do nhu cầu trong ngành dịch vụ ăn uống giảm mạnh.
Chính sách gentan ấn định giới hạn sản xuất gạo cho mỗi tỉnh hàng năm và trợ cấp cho nông dân chuyển đổi cây lúa của họ sang các loại nông phẩm có nguồn cung thấp như lúa mì, thức ăn chăn nuôi và đậu tương. Kể từ khi được áp dụng vào những năm 1970, chính sách này đã kiểm soát sản xuất lúa gạo, biến động giá cả và giá bán tại nông trại.
Mặt khác, chính sách gentan cũng dẫn đến những lời chỉ trích về các khoản trợ cấp hào phóng của chính phủ dành cho nông dân. Các khoản trợ cấp lên tới 1,05 triệu yên (7.250 đô la Mỹ) cho mỗi héc ta trong năm 2016 đã khiến nông dân trồng lúa không được khuyến khích quản lý đồng ruộng đúng cách, tăng năng suất và phát triển các chiến lược cây trồng.
Bất chấp việc bãi bỏ chính sách gentan vào năm 2018, Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản (MAFF) vẫn tiếp tục trợ cấp chuyển đổi cho nông dân trồng lúa. Nhưng các khoản trợ cấp này không bền vững. Một khi chúng ngừng lại, nông dân sẽ mất đi động lực, do nhu cầu gạo trong nước đã giảm khoảng 100.000 tấn mỗi năm.
Thay vào đó, Nhật Bản nên tận dụng tốt hơn các nguồn lực sẵn có và theo đuổi thị trường xuất khẩu gạo. MAFF báo cáo rằng nhu cầu đối với gạo Nhật Bản ngày càng tăng ở những khu vực người dân tiêu thụ gạo hàng ngày, chẳng hạn như Hồng Kông, Trung Quốc và Singapore.
Lễ hội trồng lúa Otaue tại ngôi đền Sumiyoshi vào ngày 14 tháng 6 hằng năm tại Osaka - nguồn internet
Vấn đề khi nhắm đến thị trường xuất khẩu
Xuất khẩu gạo của Nhật Bản gần đây đang liên tục tăng. Xuất khẩu gạo lứt và gạo đã làm bóng tăng từ 4.515 tấn năm 2014 lên 22.833 tấn năm 2021 - tăng gấp 5 lần trong 7 năm. Một phần ba gạo xuất khẩu của năm 2021 là sang Hồng Kông. Tuy nhiên, tổng lượng xuất khẩu chỉ chiếm chưa đến 0,5% tổng sản lượng gạo trong nước.
Vấn đề lớn nhất là gạo Nhật Bản không cạnh tranh về giá do chi phí sản xuất cao khi canh tác quy mô nhỏ ở vùng bán sơn địa. Ví dụ, các siêu trang trại ở Hoa Kỳ áp dụng phương pháp thuê ngoài các quy trình như gieo hạt và bón phân với chi phí rất hiệu quả.
Sự khác biệt về quy mô canh tác cũng ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng sản xuất. Hầu hết các trang trại lúa gạo của Nhật Bản đều có quy mô nhỏ nên không thể cung cấp ổn định một lượng gạo lớn và sẽ gặp khó khăn trong việc thiết lập các kênh bán hàng.
Một thách thức khác là làm thế nào thúc đẩy nông dân sản xuất để xuất khẩu gạo, trong khi họ đã được chính phủ trợ cấp chuyển đổi rất hào phóng. Mặc dù MAFF đã đưa ra chương trình trợ cấp để cung cấp 0,4 triệu yên (2.850 đô la Mỹ) mỗi héc ta cho sản xuất lúa gạo định hướng xuất khẩu, nhưng nhiều nông dân vẫn chọn chuyển đổi ruộng của họ.
Bước đầu tiên để vượt qua những thách thức này là tạo ra một môi trường thuận lợi cho nông dân xuất khẩu gạo. Tổ chức Ngoại thương Nhật Bản (JETRO) và MAFF hiện đang tổng hợp thông tin xuất khẩu cơ bản như nhu cầu thị trường, thủ tục hải quan và các quy định tại thị trường gạo nước ngoài cho người nông dân quan tâm đến xuất khẩu. Điều này sẽ giúp nông dân chuẩn bị mở rộng quy mô và chuyển sang các giống lúa năng suất cao.
Có thể nói vấn đề cơ bản đối với an ninh lương thực của Nhật Bản là cơ sở nông nghiệp của nước này đang bị mất và lãng phí. Các nhà xuất khẩu của đất nước mặt trời mọc đang tích cực tìm kiếm thị trường nước ngoài có tiềm năng lớn để tận dụng triệt để các nguồn tài nguyên nông nghiệp của quốc gia, cũng đồng thời giảm thiểu nguy cơ mất an ninh lương thực.
-Tổng hợp theo Yusaku Yoshikawa /Eastasiaforum.org-