Với nền kinh tế số, cốt lõi là các mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của nền kinh tế dựa trên ứng dụng công nghệ số. Công nghệ kỹ thuật số phát triển đã mở đường cho sự đổi mới và phát triển mang tính toàn cầu. Việc áp dụng những tiến bộ công nghệ trong nhiều năm qua đã tác động vào các ngành kinh doanh cũng như mọi khía cạnh của cuộc sống. Công nghệ số thúc đẩy nhiều ngành kinh doanh cải tiến mô hình phát triển, tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới và xóa mờ đường biên giới địa lý.
Trong giai đoạn 2000-2010, nhiều ông lớn đã xuất hiện và thành danh nhờ nhận thức được tầm quan trọng của việc thúc đẩy kinh tế số, tiêu biểu như: Google, Amazon, Facebook, Apple. Theo sau Mỹ, châu Âu tiếp bước với tầm nhìn và kế hoạch cho một “Single Digital Market”, Úc có “Digital Australia”, và Singapore nêu cao khẩu hiệu “Smart Nation”. Quốc gia số trở thành tầm nhìn và mục tiêu, để từ đó các chính phủ xây dựng chiến lược chuyển đổi số quốc gia, tạo động lực phát triển mới cho nền kinh tế, hòng không bị bỏ lại đằng sau trong cuộc cạnh tranh khốc liệt trên một thị trường toàn cầu. Cũng nhờ có kinh tế số mà hiệu suất kinh tế đạt được nhiều thành quả cao, các ngành công nghiệp có bước chuyển biến đột phá trong mô hình kinh doanh, từ thương mại điện tử, quảng cáo trực tuyến trên các trang mạng xã hội (Facebook, instagram), giải trí (Netflix, Pinterest), đến giao thông vận tải (Uber, Grab), phân phối, bán buôn và bán lẻ (Lazada, Shoppee)... châu Á - Thái Bình Dương cũng đã và đang trở thành khu vực kinh tế sản sinh ra nhiều doanh nghiệp dựa trên kinh tế số tiểu biểu như WeChat, TikTok, Grab, LINE, Go-Jek.
Giá trị và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế số Việt Nam:
![]() |
Nguồn: Báo cáo “Nền kinh tế số Đông Nam Á 2019” |
Với Việt Nam, nghiên cứu về kinh tế số thường được dẫn lại trong thời gian qua chính là báo cáo do Google và Temasek công bố, qui mô nền kinh tế số của Việt Nam chỉ tính riêng bốn lĩnh vực gồm di chuyển (taxi công nghệ, giao hàng, giao thức ăn), thương mại điện tử, quảng cáo trực tuyến và du lịch trực tuyến đạt 9 tỷ USD vào năm 2018 từ mức 3 tỷ USD năm 2015 4. Cũng theo báo cáo của Google và Temasek, đến năm 2025, qui mô nền kinh tế số Việt Nam dự báo sẽ đạt 33 tỷ USD với mức tăng trưởng 25% mỗi năm, cao thứ hai (sau Indonesia) về mức tăng trưởng và cao thứ ba (sau Indonesia và Thái Lan) về qui mô thị trường trong khu vực Đông Nam Á. Đến năm 2025, qui mô thị trường kinh tế số khu vực dự báo tăng lên 240 tỷ USD và Việt Nam chiếm khoảng 18% giá trị thị trường kinh tế số Đông Nam Á.
Vào thời điểm năm 2018, qui mô thị trường kinh tế số khu vực Đông Nam Á đạt giá trị 72 tỷ USD, và Việt Nam xếp vị trí thứ 6 sau Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam chỉ chiếm 1/8 tổng giá trị tương ứng khoảng 11%. Hiện nay, Việt Nam cũng là một trong những địa điểm đầu tư kinh tế số được ưa thích ở Đông Nam Á 5, đứng sau Indonesia và Singapore. Số lượng các thương vụ năm 2018 là 137 với tổng giá trị 350 triệu USD, tăng ấn tượng so với 83 thương vụ có tổng trị giá 140 triệu USD của năm 2017. Ngoài ra, để thích ứng với sự thay đổi, một số doanh nghiệp cũng lựa chọn hình thức cộng sinh, bắt tay hợp tác để mở rộng kho sản phẩm dịch vụ: Tháng 5/2019, Grab triển khai dịch vụ liên kết đặt phòng khách sạn với Agoda và Booking.com. Tháng 3/2019, Sea (trước đây là Garena) – công ty mẹ của Now và Shopee – đã quyết định tích hợp NowFood ngay trên ứng dụng Shopee để tận dụng lượng khách hàng của nền tảng thương mại điện tử6.
Các doanh nghiệp của nền kinh tế số có xu hướng bành trướng sang các dịch vụ sản phẩm khác theo thời gian
![]() |
Nguồn: Báo cáo “Nền kinh tế số Đông Nam Á 2019” |
Cũng theo báo cáo “Nền kinh tế số Đông Nam Á 2019” 7 do Google, Temasek và Bain công bố ngày 3/10/2019 tại TP. Hồ Chí Minh, nền kinh tế số Việt Nam năm 2019 trị giá 12 tỷ USD (đóng góp 5% GDP quốc gia trong năm 2019), cao gấp 4 lần so với giá trị của năm 2015 và dự đoán chạm mốc 43 tỷ USD vào năm 2025, với các lĩnh vực: thương mại điện tử, du lịch trực tuyến, truyền thông trực tuyến và gọi xe công nghệ. Nền kinh tế số Việt Nam, cùng Indonesia, đang dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng trong khu vực Đông Nam Á, với trung bình 38%/năm so với 33% của cả khu vực tính từ năm 2015. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh là 2 trong 7 thành phố lớn phát triển nền kinh tế số của khu vực. Việt Nam trở thành thị trường đón nhận nguồn đầu tư đứng thứ 3 trong khu vực (sau Indonesia và Singapore), với 600 triệu USD đầu tư từ năm 2018 đến nửa đầu năm 2019 so với tổng giá trị 350 triệu USD năm 2018 và 140 triệu USD của năm 2017. Tổng giá trị giao dịch (GMV) trên thị trường thương mại điện tử Việt Nam ước đạt 5 tỷ USD trong năm 2019, cao gấp 12,5 lần mức 0,4 tỷ USD của năm 2015 và sẽ tăng tới 23 tỷ USD vào năm 2025, với tốc độ tăng trưởng xấp xỉ 49%. Bên cạnh đó, các ngành dịch vụ du lịch trực tuyến, truyền thông trực tuyến và gọi xe trực tuyến cũng có sự vươn lên mạnh mẽ, đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế số Việt Nam.
Những điểm nghẽn cần tháo gỡ
Đại dịch COVID-19 vừa qua cùng với các lệnh giãn cách xã hội đã giúp doanh nghiệp nhận ra vai trò ngày một quan trọng của chuyển đổi số. Tuy nhiên, cũng chính đại dịch COVID-19 đã cho thấy quá trình chuyển đổi số tại Việt Nam đang phải đối đầu với một số điểm nghẽn cần tập trung tháo gỡ, cụ thể:
Một là, hạ tầng và dịch vụ số bao gồm hạ tầng cứng và mạng lưới viễn thông làm nền tảng để tạo ra hạ tầng mềm là dịch vụ số, giúp tối ưu các hoạt động của nền kinh tế vẫn chưa đáp ứng tối đa như kỳ vọng.
Hai là, tài nguyên số bao gồm hệ sinh thái dữ liệu (cơ sở dữ liệu quốc gia về nông nghiệp, tài chính, dân cư, quản lý đất đai) và tri thức mở có ích cho việc dự đoán kịp thời và ra quyết định mang lại hiệu quả kinh tế cao chưa được thực hiện, hoàn thiện so với đòi hỏi của thực tiễn.
Ba là, chính sách chuyển đổi số, bao gồm các dịch vụ, chính sách chuyển đổi từ Chính phủ điện tử sang Chính phủ số, chính sách đào tạo nhân lực số chất lượng cao, chính sách đầu tư kinh doanh số, chính sách an toàn thông tin, chủ quyền số và sở hữu trí tuệ trong thực tế còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa theo kịp xu thế của sự phát triển.
Bốn là, việc bảo vệ quyền riêng tư trên môi trường Internet, việc rò rỉ dữ liệu, mua bán và khai thác dữ liệu cá nhân, doanh nghiệp cũng đang là vấn đề đáng quan tâm trong phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam hiện nay.
Năm là, công tác quản lý nhà nước, đặc biệt là vấn đề thu thuế, đảm bảo quyền lợi cho người lao động đối với các hoạt động thương mại và cung cấp dịch vụ xuyên biên giới hiện nay.
Sáu là, thực tế cũng phản ánh quá trình chuyển đổi số tại Việt Nam còn diễn ra chậm chạp, thiếu kỹ năng số và nhân lực, thiếu tư duy kỹ thuật số hoặc các thách thức về văn hóa kỹ thuật số trong doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ9 tại Việt Nam.
Bảy là, bảo đảm an toàn, an ninh trong môi trường số cũng là vấn đề quan trọng nếu muốn đưa kinh tế số trở thành một trong những trụ cột chính của nền kinh tế.
Tám là, sự chuyển đổi nhanh của các mô hình kinh doanh trong nền kinh tế số đã dẫn tới một số quy định pháp luật không theo kịp. Do sự phát triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ, kinh tế số cùng các phương thức kinh doanh và các ý tưởng sáng tạo mới làm cho các cơ quan quản lý Nhà nước còn lúng túng trong quản lý các hoạt động kinh tế số.
Một số giải pháp cơ bản phát triển kinh tế số Việt Nam theo hướng bền vững
Kinh nghiệm của các nước đang phát triển trên thế giới và trong khu vực như: Hàn Quốc, Singapore, Nhật Bản và các nước phát triển như Mỹ, Đức,… cho thấy, biện pháp để đưa nền kinh tế các nước đi lên phát triển một cách bền vững là phải dựa vào việc nghiên cứu, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ. Đảng và Nhà nước đã sớm nhận ra tiềm năng to lớn của mô hình tăng trưởng kinh tế dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, trong đó phát triển kinh tế số được xem là xu hướng tất yếu để tạo ra những động lực tăng trưởng kinh tế cho Việt Nam trong bối cảnh làn sóng CMCN 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay. Thời gian tới, để phát triển kinh tế số Việt Nam theo hướng bền vững, cần tiến hành thực hiện các giải pháp đồng bộ sau:
Thứ nhất, sự thiếu hụt nguồn nhân lực công nghệ thông tin được xem là một trong những thách thức lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế số của Việt Nam, do vậy cần nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo nguồn nhân lực cho nền kinh tế số. Việc làm này có thể triển khai theo hướng thúc đẩy và nâng cao mối quan hệ giữa nhà trường và doanh nghiệp. Các cơ sở giáo dục đại học cần có những khóa đào tạo lại và nâng cao, kéo dài từ 6-12 tháng để cấp chứng chỉ chứ không phải đào tạo bằng cấp. Chương trình đào tạo nhân lực công nghệ thông tin cần gắn với các xu thế công nghệ mới như: internet kết nối vạn vật (Internet of Things - IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ robot, đẩy mạnh liên kết đào tạo và thực hành giữa các trường và khu vực doanh nghiệp trong ứng dụng công nghệ thông tin...
Thứ hai, sớm có cơ chế thúc đẩy phát triển kinh tế số tại các vùng kinh tế trọng điểm để góp phần phát triển các ngành công nghệ cao, đem lại giá trị gia tăng lớn, từ đó tạo nên sự phát triển kinh tế bền vững. Xét về bản chất, các vùng kinh tế trọng điểm không chỉ là nơi có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, tập trung sản xuất công nghiệp của cả nước mà còn là nơi có hệ thống các trường đại học, viện, trung tâm nghiên cứu hàng đầu; bảo đảm đào tạo và cung cấp nhân lực cho cả vùng, có nhiều thuận lợi để phát triển kinh tế số.
Thứ ba, Nhà nước nên phân bổ phù hợp ngân sách cho các địa phương; kích thích các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm cùng hợp tác phát triển hạ tầng. Ngoài ra, Nhà nước có chính sách hỗ trợ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong vùng kinh tế trọng điểm. Chính phủ cần tạo không gian thử nghiệm đi đôi với hỗ trợ doanh nghiệp để phát triển nền kinh tế số. Bởi các ứng dụng công nghệ số sẽ là “cú hích” quan trọng thúc đẩy đổi mới sáng tạo của các cá nhân và doanh nghiệp.
Thứ tư, để phát triển kinh tế số theo hướng bền vững, chính quyền các địa phương, doanh nghiệp cần khẩn trương nâng cấp hạ tầng số, trong đó có việc chuẩn bị các phương án triển khai dịch vụ 5G cũng như các hạng mục hạ tầng công nghệ khác có liên quan.
Thứ năm, chú trọng đối ngoại đa phương với các tổ chức từ cấp độ toàn cầu (WTO, WB, IMF…), liên khu vực (ASEM, APEC, FEALAC…), khu vực (ASEAN, ADB…) nhằm xây dựng những quy tắc phối hợp và ứng xử chung, các hiệp định, công ước và thỏa thuận hợp tác, phối hợp trên những vấn đề liên quan nảy sinh từ sự phát triển của kinh tế số nhằm bảo đảm an ninh thông tin, an ninh mạng.
Theo PGS,TS. Trần Mai Ước