Bài liên quan |
Dạy thêm học thêm cần đưa vào quản lý ngành nghề kinh doanh có điều kiện |
Điểm tên 16 ngành, nghề có thể bị loại khỏi danh mục kinh doanh có điều kiện |
Theo Bộ Tài chính, Luật Đầu tư 2014 quy định Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện gồm 267 ngành, nghề. Đến Luật Đầu tư 2020 (được sửa đổi, bổ sung tại Luật số 90/2025/QH15), số lượng đã giảm xuống còn 237. Việc cắt giảm này chủ yếu tập trung vào việc bỏ yêu cầu về vốn tối thiểu, giảm bớt các điều kiện liên quan đến quy hoạch, phương án kinh doanh… tạo môi trường thuận lợi hơn cho doanh nghiệp.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy việc “cắt giảm” này mới dừng ở hình thức, chủ yếu bằng cách gộp tên hoặc dùng tên ngành, nghề có phạm vi bao quát rộng để giảm số lượng trên giấy tờ. Trong khi đó, cơ chế “tiền kiểm” vẫn chiếm ưu thế – nghĩa là doanh nghiệp phải xin cấp phép mới được kinh doanh. Một số ngành, nghề lẽ ra có thể quản lý bằng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật thì vẫn bị ràng buộc bởi điều kiện đầu tư kinh doanh, gây cản trở gia nhập thị trường.
Ở chiều ngược lại, một số ngành nghề mới tiềm ẩn rủi ro về an ninh, trật tự, sức khỏe cộng đồng lại chưa được bổ sung vào Danh mục có điều kiện, ví dụ: kinh doanh nền tảng chia sẻ dữ liệu cá nhân hay công nghệ deepfake. Điều này có thể tạo ra kẽ hở pháp lý và khó khăn cho công tác quản lý.
![]() |
Đề xuất tăng quyền chủ động cho Chính phủ kiểm soát ngành nghề kinh doanh có điều kiện |
Để khắc phục bất cập, Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi khoản 2 Điều 7 Luật Đầu tư, theo hướng giao Chính phủ ban hành Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Việc này giúp tăng tính linh hoạt, kịp thời điều chỉnh khi xuất hiện ngành nghề mới có rủi ro, đồng thời loại bỏ những ngành nghề không còn cần thiết áp dụng cơ chế tiền kiểm.
Bên cạnh đó, Bộ cũng đề xuất bổ sung quy định làm rõ nguyên tắc xác định điều kiện đầu tư kinh doanh. Cụ thể, điều kiện đầu tư kinh doanh chỉ bao gồm yêu cầu về năng lực, trình độ chuyên môn, nhân lực, cơ sở vật chất, hệ thống quản lý mà tổ chức, cá nhân phải đáp ứng. Các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật liên quan đến chất lượng sản phẩm, dịch vụ sẽ không được xem là “điều kiện đầu tư kinh doanh” mà chỉ là công cụ để kiểm soát sản phẩm đầu ra theo cơ chế hậu kiểm.
Việc phân định rạch ròi giữa “điều kiện đầu tư kinh doanh” và “quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật” sẽ giúp loại bỏ tình trạng lạm dụng tiền kiểm, giảm thủ tục hành chính, đồng thời khuyến khích tự do kinh doanh. Các ngành nghề có thể quản lý bằng hậu kiểm sẽ được trả lại đúng bản chất, trong khi những ngành nghề tiềm ẩn rủi ro cao sẽ được bổ sung kiểm soát chặt chẽ.
Theo Bộ Tài chính, đây là bước hoàn thiện pháp lý quan trọng nhằm tạo dựng môi trường đầu tư kinh doanh minh bạch, thuận lợi, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển bền vững, đồng thời vẫn bảo đảm vai trò quản lý của Nhà nước trong bảo vệ lợi ích công cộng và trật tự xã hội.