Nghiên cứu của VESS đã phân tích các động lực hiện nay dẫn tới xu hướng chuyển dịch trên thế giới, bao gồm các cơ hội và thách thức của chuyển dịch năng lượng đối với các ngành và thị trường lao động hiện hữu, trên cơ sở đó để phân tích xu hướng chuyển dịch năng lượng tại Việt Nam. Qua đó, VESS nhìn nhận, đánh giá những cơ hội và thách thức hiện nay đối với ngành dầu khí của Việt Nam trong bối cảnh chuyển dịch năng lượng.
Việt Nam không nằm ngoài xu hướng chuyển dịch năng lượng của thế giới
Nghiên cứu đã chỉ ra những xu hướng chuyển dịch năng lượng trên thế giới và tác động của xu hướng này, cụ thể là:
Thứ nhất, là động lực dẫn tới chuyển dịch năng lượng: Những động lực về môi trường và động lực về kinh tế - xã hội đã thúc đẩy ngày càng nhanh chuyển dịch năng lượng trên thế giới. Trung Quốc là quốc gia phát thải ròng CO2 lớn nhất thế giới là hiện nay và đã có khoảng 1,2 triệu ca tử vong tại Trung Quốc được ước tính vào năm 2017 là do tác động của ô nhiễm môi trường. Nhận thức được vấn đề này, Trung Quốc đã kiểm soát và cho ngừng nhiều nhà máy hoạt động kém hiệu quả và tỷ lệ năng lượng dựa vào điện than đã giảm xuống 56,8% vào năm 2020. Đồng thời, Trung Quốc đã tăng tỷ trọng sử dụng nguồn nhiên liệu phi hoá thạch trong tiêu thụ năng lượng sơ cấp từ 5,1 lên 15,9%. Đối với Nhật Bản, sau sự cố điện hạt nhân Fukushima vào tháng 3/2011, đất nước này rơi vào một cuộc khủng hoảng năng lượng mới. Chính thâm hụt từ nguồn năng lượng hạt nhân cho ngành điện đã thúc đẩy Nhật Bản tăng nhập khẩu và sử dụng các nguồn nhiên liệu hoá thạch thay thế, bao gồm khí tự nhiên, than và dầu. Tuy nhiên, trước sự phản đối mạnh mẽ từ cộng đồng về vấn đề ảnh hưởng môi trường, Nhật Bản đã chuyển hướng tập trung vào việc nhập khẩu nhiều hơn khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) so với các nhiên liệu hóa thạch khác. Hiện nay, Nhật Bản là nước nhập khẩu LNG lớn nhất thế giới. Khu vực EU cũng đang phải đối mặt với khủng hoảng an ninh năng lượng khi các nước EU trong năm 2020 phải nhập khẩu năng lượng với tỷ trọng lớn (58%) từ các quốc gia bên ngoài để đáp ứng được nhu cầu trong khu vực.
Thứ hai, sự thay đổi của các ngành: Các ngành nghề đã và đang có nhiều thay đổi để thích ứng với biến đổi của thị trường và yêu cầu của xã hội khi đứng trước những cơ hội và thách thức từ chuyển dịch năng lượng. Lĩnh vực giao thông là lĩnh vực có nhiều đổi mới nhất khi điện được coi là giải pháp xanh và bền vững hơn xăng dầu. Nếu như vào năm 2012 chỉ có khoảng 130.000 xe điện được bán trên toàn cầu thì tới hiện nay cùng với số lượng trên có thể được bán trong vài tuần. Sự phát triển của năng lượng tái tạo sẽ làm tăng nhu cầu về một số loại khoáng sản như niken, coban, lithit, đồng... Các tấm pin mặt trời, trang trại gió hay xe điện thông thường cần nhiều khoáng sản hơn so với các cơ sở hạ tầng vận hành bằng năng lượng hoá thạch. Hiện tại, năng lượng tái tạo biến đổi (VRE) đang thúc đẩy quá trình giảm phát thải carbon đang diễn ra trong ngành điện, đồng thời định hình lại hoạt động của hệ thống điện. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển dịch sang các nguồn năng lượng tái tạo, khí đốt vẫn đóng một vai trò quan trọng như một nguồn năng lượng trung gian, hỗ trợ chuyển tiếp sang các nguồn năng lượng sạch. Điện khí được dự báo có xu hướng tăng trưởng trong tương lai khi được đánh giá là có tính ổn định hơn và giúp hệ thống điện được vận hành trơn tru so với năng lượng tái tạo biến đổi.
Thứ ba, sự dịch chuyển của thị trường lao động: Khi nhu cầu năng lượng từ các nguồn nhiên liệu hoá thạch dịch chuyển dần sang các nguồn năng lượng sạch hơn, sự chuyển đổi đó sẽ có tác động đến việc làm và chuyển dịch lực lượng lao động từ ngành này sang ngành khác. Theo dự báo, nếu các quốc gia thực hiện đúng cam kết của mình, tới năm 2030 sẽ có 10,3 triệu việc làm ròng được tạo ra trong lĩnh vực năng lượng tái tạo và các ngành liên quan. Con số này còn có thể tăng lên tới 22,7 triệu việc làm ròng nếu như các quốc gia được đặt trong bối cảnh hướng tới mục tiêu đưa mức phát thải ròng về “0”. Lao động làm việc trong ngành năng lượng hóa thạch thuộc nhóm chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi quá trình chuyển dịch năng lượng. Theo ước tính, có khoảng 9,5 triệu việc làm trong ngành năng lượng hóa thạch sẽ bị ảnh hưởng. Mặc dù số lượng việc làm mất đi trong ngành năng lượng hoá thạch hoàn toàn có thể được bù đắp lại bằng số việc làm mới trong ngành năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là sẽ có một bộ phận người lao động không đáp ứng được các yêu cầu về tuổi tác hay kỹ năng phù hợp cho quá trình chuyển dịch.
Theo đánh giá của VESS, Việt Nam không nằm ngoài xu hướng chuyển dịch năng lượng của thế giới. Các động lực dẫn tới chuyển dịch năng lượng tại Việt Nam xoay quanh hai vấn đề chính là môi trường và kinh tế xã hội. Tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, tiến trình đô thị hóa và công nghiệp hóa trong vòng 30 năm qua tại Việt Nam dựa nhiều vào nguồn năng lượng than và dầu đã tạo ra một lượng khí thải nhà kính, đây là một trong các tác nhân gây ra biến đổi khí hậu.
Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam đã mất 10 tỷ USD vào năm 2020, tương đương 3,2% GDP bởi các ảnh hưởng từ biến đổi khí hậu. Năm 2021, Việt Nam được xếp hạng 61 trên tổng số 115 quốc gia về mức độ sẵn sàng chuyển dịch năng lượng trong chỉ số Chuyển dịch năng lượng của Diễn đàn Kinh tế Thế giới với số điểm là 54/100, tăng 8 bậc và 3 điểm so với bảng xếp hạng năm 2020.
Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trình bản cập nhật của Đóng góp quốc gia tự quyết định (NDC) lên UNFCCC vào năm 2020. Các ngành năng lượng như ngành điện và ngành giao thông vận tải có xu hướng thay đổi nhiều nhất để đáp ứng cam kết của Việt Nam trong việc giảm phát thải khí nhà kính. Ngành dầu khí, với chức năng cung cấp nhiên liệu đầu vào cho các ngành trên cũng đang đối mặt với các cơ hội và thách thức trong bối cảnh chuyển dịch năng lượng trên toàn cầu.
Ngành dầu khí Việt Nam sẽ ảnh hưởng thế nào?
Báo cáo nghiên cứu cho thấy, ngành dầu khí Việt Nam đang đứng trước nhiều khó khăn, do phần lớn các mỏ dầu khí đã phát hiện được đều là mỏ cận biên. Hơn nữa, với tốc độ khai thác như hiện nay, thì chỉ vài chục năm nữa, các mỏ dầu, khí đang khai thác sẽ cạn kiệt. Do đó, việc đẩy mạnh công tác tìm kiếm, phát hiện, thăm dò và khai thác các mỏ dầu khí mới đã và đang được đẩy mạnh. Dự thảo Luật Dầu khí sắp tới được kỳ vọng sẽ tạo cơ hội và thúc đẩy cho quá trình đầu tư, tìm kiếm, phát hiện, thăm dò và khai thác các mỏ dầu, khí mới diễn ra nhanh chóng và thuận lợi.
Tuy nhiên, cho đến bản Dự thảo Luật lần thứ 4 (ngày 22/8/2022), nhóm nghiên cứu vẫn thấy còn một số bất cập. Thứ nhất, Luật Dầu khí mới chỉ quy định các hoạt động ở khâu thượng nguồn, mà không quy định các hoạt động trung và hạ nguồn. Việc này sẽ gây ra hiện tượng xung đột, chồng chéo trong quá trình quản lý chuỗi giá trị dầu khí. Do đó, cần đưa vào Dự thảo các quy định liên quan đến hoạt động dầu khí ở khâu trung và hạ nguồn.
Thứ hai, việc đẩy mạnh ưu đãi thuế không chắc đã giúp cải thiện thu hút đầu tư vào các dự án dầu khí. Dự thảo Luật Dầu khí sửa đổi đang đề xuất đối với các dự án đặc biệt ưu đãi, nhà đầu tư có thể được áp dụng mức giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp từ 25% đến tối đa 50%. Tuy nhiên, theo các chuyên gia ở VESS, trong vòng 10 năm qua, các nước thành viên ASEAN đang cạnh tranh với nhau trong một cuộc đua xuống đáy bằng cách giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp. Mức thuế suất trung bình của ASEAN đã giảm từ 25,1% vào năm 2010 xuống còn 21,7% vào năm 2020. Vì vậy, việc giảm thuế suất của Việt Nam được cho là sẽ không hiệu quả.
Thứ ba, chưa có quy định pháp luật về các cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà nước Việt Nam với các nhà đầu tư quốc tế. Trong khi đó, phương thức giải quyết các tranh chấp liên quan đến các hợp đồng dầu khí chủ yếu thông qua cơ chế trọng tài quốc tế và các cam kết trong Hiệp định bảo hộ đầu tư (IPA) giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ với Việt Nam. Điều này sẽ khiến cho việc giải quyết tranh chấp kéo dài, gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước.
Thứ tư, hiện vẫn chưa có các hướng dẫn cụ thể cho việc điều tra, thăm dò và khai thác các loại dầu khí phi truyền thống. Các loại dầu khí phi truyền thống có đặc điểm về phân bố, đặc tính hóa học tương đối khác biệt so với dầu khí truyền thống, nên các phương pháp để điều tra, thăm dò và khai thác cũng khác biệt, đòi hỏi cần có quy định và hướng dẫn cụ thể. Theo khuyến nghị của nhóm nghiên cứu, các quy định này cần được nghiên cứu và cân nhắc bổ sung trong Dự án Luật sửa đổi sắp tới hoặc trong các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành Luật Dầu khí sửa đổi.
Đối với Việt Nam trong giai đoạn này, điện khí vẫn là nhân tố quan trọng giúp thay thế dần các nguồn nhiệt điện than và hỗ trợ quá trình chuyển đổi từ năng lượng hoá thạch sang năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu cũng lưu ý rằng, việc phụ thuộc nhiều vào nguồn khí LNG nhập khẩu từ nước ngoài không phải là giải pháp bền vững cho chuyển dịch năng lượng Việt Nam.
“Mặc dù Quy hoạch Điện VIII đề xuất Việt Nam tham gia thị trường LNG với hợp đồng dài hạn để tránh các biến động về giá, tuy nhiên theo các trường hợp tại quốc gia nhập khẩu khí LNG lớn như Nhật Bản, thì trong nhiều trường hợp như nhu cầu tăng cao và lo ngại tình hình cung từ Nga, Nhật Bản vẫn chịu ảnh hưởng bởi biến động giá trên thị trường quốc tế. Ngoài ra, việc đầu tư cho các cơ sở vật chất chuyên dụng cho việc nhập khẩu khí LNG từ nước ngoài đòi khỏi một nguồn vốn lớn với mức độ rủi ro cao trong khâu vận hành hệ thống. Vì vậy, Việt Nam cần tăng cường khai thác các mỏ khí đốt tiềm năng của mình thay vì duy trì sản lượng hiện nay như Quy hoạch Điện VIII đang đề xuất”, nhóm nghiên cứu khuyến nghị.
T.H