Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản (NLTS) tháng 7 năm 2025 của Việt Nam ước đạt 6,01 tỷ USD, tăng 13,4% so với cùng kỳ năm 2024; đưa tổng kim ngạch xuất khẩu NLTS 7 tháng đầu năm 2025 đạt 39,68 tỷ USD, tăng 14,7% so với cùng kỳ năm 2024 (thặng dư 11,52 tỷ USD, tăng 15,9% so với cùng kỳ năm trước).
Trong đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản đạt 21,49 tỷ USD, tăng 17%; giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi đạt 339,2 triệu USD, tăng 22,1%; giá trị xuất khẩu thủy sản đạt 6,06 tỷ USD, tăng 13,8%; giá trị xuất khẩu lâm sản đạt 10,38 tỷ USD, tăng 8,6%; giá trị xuất khẩu đầu vào sản xuất đạt 1,4 tỷ USD, tăng 30,2%; giá trị xuất khẩu muối đạt 6,4 triệu USD, tăng 2,2 lần.
Xét theo vùng lãnh thổ, châu Á là thị trường xuất khẩu các mặt hàng NLTS lớn nhất của Việt Nam với thị phần chiếm 42,6%. 2 thị trường lớn tiếp theo là châu Mỹ và châu Âu với thị phần lần lượt là 23,3% và 15,1%. Thị phần của 2 khu vực châu Phi và châu Đại Dương nhỏ, chiếm lần lượt 3,1% và 1,3%.
So với cùng kỳ năm trước, ước giá trị xuất khẩu NLTS của Việt Nam 7 tháng đầu năm 2025 sang khu vực châu Á tăng 3,3%; châu Mỹ tăng 14,7%; châu Âu tăng 43,1%; châu Phi tăng 88,9%; và châu Đại Dương tăng 4,4%.
Xét theo thị trường cụ thể, Hoa Kỳ với thị phần 21%, Trung Quốc với thị phần 18,4%, Nhật Bản với thị phần 7,2%, là 3 thị trường xuất khẩu các mặt hàng NLTS lớn nhất của Việt Nam. So với cùng kỳ năm trước, ước giá trị xuất khẩu NLTS của Việt Nam 7 tháng đầu năm 2025 sang thị trường Hoa Kỳ tăng 12,1%, Trung Quốc tăng 3,6%, và Nhật Bản tăng 23,6%.
![]() |
Xuất khẩu nông sản 7 tháng đầu năm 2025 đạt 39,68 tỷ USD |
Về nhập khẩu, kim ngạch nhập khẩu NLTS tháng 7 năm 2025 của Việt Nam ước đạt 4,26 tỷ USD, tăng 12,1% so với tháng 7 năm 2024; đưa tổng kim ngạch nhập khẩu NLTS 7 tháng đầu năm 2025 đạt 28,16 tỷ USD, tăng 14,2% so với cùng kỳ năm 2024.
Trong đó, giá trị nhập khẩu các mặt hàng nông sản đạt 17,22 tỷ USD, tăng 13,5%; giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi đạt 2,55 tỷ USD, tăng 22,8%; giá trị nhập khẩu thủy sản đạt 1,88 tỷ USD, tăng 31,1%; giá trị nhập khẩu lâm sản đạt 1,99 tỷ USD, tăng 27,7%; giá trị nhập khẩu đầu vào sản xuất đạt 4,5 tỷ USD, tăng 2,1%; giá trị nhập khẩu muối đạt 22,3 triệu USD, tăng 9%.
Xét theo vùng lãnh thổ, Việt Nam nhập khẩu các mặt hàng NLTS nhiều nhất từ các thị trường thuộc khu vực châu Á và châu Mỹ với thị phần lần lượt là 30,7% và 24,2%. Thị phần của 3 khu vực châu Âu, châu Phi, và châu Đại Dương nhỏ, lần lượt là 4,8%, 3,9%, và 3,3%.
So với cùng kỳ năm trước, ước giá trị nhập khẩu NLTS của Việt Nam 7 tháng đầu năm 2025 từ khu vực châu Á tăng 19,6%; châu Mỹ tăng 11,2%; châu Âu tăng 17,9%; châu Phi tăng 13,4%; và châu Đại Dương giảm 1,7%.
Xét theo thị trường cụ thể, Trung Quốc, Hoa Kỳ và Campuchia, là 3 thị trường cung cấp các mặt hàng NLTS lớn nhất cho Việt Nam với thị phần lần lượt là 9,3%, 9,2%, và 7,6%. So với cùng kỳ năm trước, ước giá trị nhập khẩu NLTS của Việt Nam 7 tháng đầu năm 2025 từ thị trường Trung Quốc tăng 10,5%, Hoa Kỳ tăng 28,3% và Campuchia tăng 41,6%.
Cán cân thương mại NLTS Việt Nam 7 tháng đầu năm 2025 ước đạt thặng dư 11,52 tỷ USD, tăng 15,9% so với cùng kỳ năm trước. Xét theo nhóm hàng, lâm sản, thủy sản và nông sản là 3 nhóm hàng có cán cân thương mại 7 tháng đầu năm 2025 ở trạng thái thặng dư.
Cụ thể, nhóm lâm sản ước đạt thặng dư 8,39 tỷ USD, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm 2024; nhóm thủy sản thặng dư 4,18 tỷ USD, tăng 7,5%; và nhóm nông sản thặng dư 4,28 tỷ USD, tăng 33,4%. Trong khi đó, cán cân thương mại 3 nhóm hàng còn lại ở trạng thái thâm hụt: nhóm đầu vào sản xuất thâm hụt 3,1 tỷ USD, giảm 6,9%; sản phẩm chăn nuôi thâm hụt 2,21 tỷ USD, tăng 22,9%; và muối thâm hụt 15,9 triệu USD, giảm 9,2%.