Xuất khẩu gạo của Việt Nam: Tăng về lượng nhưng giảm về chất VCCI đề nghị bỏ yêu cầu doanh nghiệp xuất khẩu gạo phải sở hữu kho và dự trữ tối thiểu |
Không còn “bán đổ bán tháo” ở thị trường dễ tính
Nhiều năm, gạo Việt Nam chủ yếu xuất khẩu vào các thị trường truyền thống, dễ tính, nơi đặt nặng yếu tố giá cả. Tuy nhiên, bài học từ các cuộc cạnh tranh về giá, rủi ro hợp đồng hay tình trạng bị ép giá đã khiến nhiều doanh nghiệp thay đổi tư duy hướng đến các thị trường “khó tính” như Mỹ, Nhật Bản, EU…
![]() |
Doanh nghiệp xuất khẩu gạo đang dần chọn thị trường khó tính để đi đường dài |
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng 4/2025 xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt 1,12 triệu tấn, tương đương 560,23 triệu USD, giá trung bình 500,6 USD/tấn, tăng 3,8% về lượng, tăng 5,6% kim ngạch so với tháng 3/2025 và giá tăng 1,8%. Tính chung cả 4 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu gạo của cả nước đạt gần 3,43 triệu tấn, tương đương gần 1,77 tỷ USD, giá trung bình 515 USD/tấn, tăng 8,1% về lượng.
Dù Philippines vẫn đứng đầu, chiếm 43,4% trong tổng lượng và chiếm 41,4% trong tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của cả nước nhưng gạo Việt Nam đã mở rộng ra nhiều thị trường và có mức tăng trưởng mạnh, như: xuất khẩu gạo sang Bangladesh tăng trưởng rất mạnh 81.047% về lượng, tăng 51.457% kim ngạch, đạt 104.679 tấn, tương đương 49,71 triệu USD; xuất khẩu gạo sang Senegal cũng tăng mạnh 5.689% về lượng, tăng 2.404% kim ngạch, đạt 82.139 tấn, tương đương 25,68 triệu USD…
Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu gạo đã phải thốt lên: Không thể chỉ bán mãi ở những nơi dễ tính rồi sống bằng lợi nhuận mỏng, phải đi vào thị trường khó nếu muốn tồn tại lâu dài.
Thị trường cao cấp cũng đồng nghĩa với khó tính, đòi hỏi mọi quy trình từ canh tác, chế biến đến đóng gói, logistics đều phải chuẩn hóa theo tiêu chuẩn cao nhất. Đổi lại, giá bán cao hơn từ 1,5 - 2 lần so với thị trường đại trà. Không ít doanh nghiệp nhỏ sẵn sàng đầu tư vùng nguyên liệu hữu cơ, hệ thống truy xuất QR code để đáp ứng điều kiện của châu Âu, Mỹ.
Là doanh nghiệp xuất khẩu đến thị trường khó tính, trong đó có thị trường Nhật Bản, ông Trương Sỹ Bá - Chủ tịch Tập đoàn Tân Long - cho biết, năm nay, lượng gạo xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản dự kiến tăng 6 lần so với năm ngoái. Xuất khẩu gạo sang Nhật rất khó vì có nhiều tiêu chí khắt khe, nhưng hiệu quả kinh tế cao.
Vẫn cần phải đa dạng hóa thị trường
Những tháng đầu năm nay, thị trường ngành lúa gạo đang chứa đựng nhiều yếu tố không thuận, khi mới đây Indonesia - một trong những nước nhập khẩu gạo Việt Nam - đưa ra thông tin lên kế hoạch ngừng nhập khẩu gạo trong năm nay. Lý do được đưa ra là do kho dự trữ gạo quốc gia của Indonesia vừa phá kỷ lục với việc tích trữ hơn 4 triệu tấn gạo, bên cạnh đó, sản lượng gạo toàn quốc của Indonesia 5 tháng đầu năm 2025 ước đạt 16,55 triệu tấn.
Bên cạnh đó cũng phải nói thêm, 4 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu gạo của cả nước tăng về số lượng nhưng lại giảm 13,4% về kim ngạch và giảm 19,9% về giá so với 4 tháng đầu năm 2024.
Đáng nói, tốc độ tụt giảm giá gạo xuất khẩu của Việt Nam diễn ra nhanh hơn giá gạo xuất khẩu của Thái Lan rất nhiều. Theo các chuyên gia trong ngành, việc doanh nghiệp xuất khẩu gạo tập trung quá lớn vào một số ít thị trường mua số lượng nhiều nhằm “hưởng chênh lệch đầu tấn” (tức bán khối lượng càng nhiều lợi nhuận càng cao) mà chưa tập trung vào giá trị là nguyên nhân khiến ngành gạo Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề khi rủi ro xảy ra.
Câu chuyện giá gạo xuất khẩu sụt giảm mạnh từ đầu năm 2025 đến nay tiếp tục đặt ra bài toán đa dạng hóa thị trường để gia tăng thêm sức cạnh tranh cho ngành lúa gạo. Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng sẵn sàng chấp nhận “cuộc chơi dài hạn”, nhất là với những thị trường khó tính.
Thực tế, nhiều lô hàng bị trả lại do không đạt chỉ tiêu dư lượng thuốc bảo vệ thực vật hoặc thiếu giấy tờ chứng minh nguồn gốc. Ngoài ra, chi phí đầu tư vùng nguyên liệu, hệ thống kiểm tra chất lượng... là thách thức không nhỏ, đặc biệt với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nói như thế không có nghĩa thấy khó mà dừng, vì theo tính toán, xuất khẩu một nghìn tấn gạo vào các thị trường Nhật Bản, EU… hiệu quả bằng chục nghìn tấn vào các thị trường khác. Do đó, dù phải đáp ứng nhiều tiêu chí khắt khe nhưng các doanh nghiệp xuất khẩu đang chọn đi theo hướng này.
Vì vậy, ngoài sự hỗ trợ, đồng hành của cơ quan chức năng thì điểm mấu chốt vẫn nằm ở sự chủ động từ phía doanh nghiệp. Chỉ khi nào doanh nghiệp thực sự coi trọng chất lượng, xây dựng chuỗi giá trị khép kín và đầu tư cho thương hiệu thì mới có thể trụ vững ở thị trường khó tính.
Việc chọn thị trường cao cấp để phát triển lâu dài không chỉ giúp doanh nghiệp thoát khỏi vòng luẩn quẩn của thị trường giá rẻ mà còn góp phần khẳng định vị thế của gạo Việt trên thị trường quốc tế. Dù con đường này không trải hoa hồng, nhưng rõ ràng là con đường của sự bền vững, khi chất lượng được đặt lên trên hết.
Hạt gạo Việt giờ không chỉ là nông sản xuất khẩu, mà đang dần trở thành đại diện cho nông nghiệp công nghệ cao, an toàn, và có thương hiệu. Đó chính là đích đến xứng đáng cho những doanh nghiệp dám chọn đường dài để đi.