Thứ hai 03/11/2025 00:03
Hotline: 024.355.63.010
Pháp luật

Phương pháp xác định số lợi bất hợp pháp có được từ hành vi vi phạm hành chính

23/11/2022 15:06
Trường hợp không xác định được số lượng, khối lượng, đơn giá thì số lợi bất hợp pháp có được là toàn bộ số tiền tổ chức, cá nhân thu được từ việc chuyển nhượng, tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái quy định.

Số lợi bất hợp pháp thu được do thực hiện hành vi vi phạm hành chính: Căn cứ tại Điều 4 Thông tư 65/2022/TT-BTC quy định số lợi bất hợp pháp thu được do thực hiện hành vi vi phạm hành chính như sau:

Thông tư số 65/2022/TT-BTC ngày 2/11/2022 của Bộ Tài chính đã quy định chi tiết về số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm hành chính (Ảnh minh họa)

Thông tư số 65/2022/TT-BTC ngày 2/11/2022 Bộ Tài chính quy định chi tiết về số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm hành chính (Ảnh minh họa).

Số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 37 Luật Xử lý vi phạm hành chính; điểm e, khoản 3, Điều 4 Nghị định 98/2020/NĐ-CP và khoản 2, Điều 3 Nghị định 17/2022/NĐ- CP là vật, tiền, giấy tờ có giá hoặc tài sản khác có được từ hành vi vi phạm hành chính mà tổ chức, cá nhân đó đã thực hiện trong lĩnh vực hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Nguyên tắc xác định số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm hành chính: Căn cứ tại Điều 3 Thông tư 65/2022/TT-BTC Tải vềquy định nguyên tắc xác định số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm hành chính như sau:

Việc xác định số lợi bất hợp pháp do người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính thực hiện và ghi trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính hoặc quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả.

Số lợi bất hợp pháp được xác định từ khi tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm hành chính đến thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm hoặc có quyết định xử phạt vi phạm hành chính hoặc quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quá.

Trường hợp tổ chức, cá nhân thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì xác định sổ lợi bất hợp pháp có được theo từng hành vi vi phạm hành chính.

Trường hợp tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi vi phạm hành chính nhiều lần thì xác định số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo từng lần.

Thông tư số 65/2022/TT-BTC ngày 2/11/2022 của Bộ Tài chính đã quy định chi tiết về số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm hành chính buộc phải nộp lại theo khoản 2, Điều 91 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP ngày 26/8/2020 của Chính phủ.

Cụ thể, Thông tư số 65/2022/TT-BTC quy định chi tiết khoản 2 Điều 91 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP về số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm hành chính bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp (bao gồm tiền, giấy tờ có giá, vật và tài sản khác) có được do thực hiện hành vi vi phạm hành chính hoặc buộc nộp lại số tiền bằng trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đã bị tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái quy định của pháp luật trong lĩnh vực hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng để nộp vào ngân sách Nhà nước.

Theo đó, số lợi bất hợp pháp có được bằng tiền là toàn bộ số tiền tổ chức, cá nhân thu được từ hành vi vi phạm hành chính và được tính bằng số tiền thu được từ việc chuyển nhượng, tiêu thụ hàng hóa, cung cấp dịch vụ vi phạm sau khi đã trừ chi phí trực tiếp cấu thành hàng hóa, dịch vụ căn cứ vào hồ sơ, chứng từ chứng minh tính hợp pháp, hợp lệ của các chi phí đó do tổ chức, cá nhân vi phạm cung cấp.

Phương pháp xác định số tiền tổ chức, cá nhân vi phạm có được do thực hiện hành vi vi phạm hành chính được tính bằng (=) số lượng hàng hóa, khối lượng dịch vụ đã chuyển nhượng, tiêu thụ nhân (x) với đơn giá hàng hóa, dịch vụ trừ (-) chi phí trực tiếp cấu thành hàng hóa hoặc dịch vụ (nếu tổ chức, cá nhân vi phạm có đầy đủ hồ sơ, chứng từ để chứng minh tính hợp pháp, hợp lệ của các chi phí đó).

Trong đó, số lượng hàng hóa hoặc khối lượng dịch vụ đã chuyển nhượng, tiêu thụ được xác định trên cơ sở kê khai của tổ chức, cá nhân vi phạm và kiểm tra, xác minh của người có thẩm quyền xử phạt. Đơn giá hàng hóa, dịch vụ được xác định trên cơ sở hồ sơ, chứng từ của tổ chức, cá nhân vi phạm.

Cần lưu ý các trường hợp cụ thể có thể xảy ra được quy đinh định như sau:

Thứ nhất: Trường hợp không có hồ sơ, chứng từ để xác định thì đơn giá được xác định theo giá thị trường của hàng hóa, dịch vụ tương tự tại thời điểm phát hiện hành vi vi phạm.

Thứ hai: Trường hợp không xác định được số lượng, khối lượng, đơn giá thì số lợi bất hợp pháp có được là toàn bộ số tiền tổ chức, cá nhân thu được từ việc chuyển nhượng, tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái quy định.

Thứ ba: Trường hợp các tổ chức, cá nhân nhận gia công cho thương nhân nước ngoài thực hiện hành vi vi phạm về xuất xứ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu phải nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm thì số lợi bất hợp pháp có được từ hoạt động gia công hàng hóa là toàn bộ số tiền tổ chức, cá nhân thu được từ hoạt động gia công (tiền thuê, phí gia công) trừ (-) chi phí trực tiếp cấu thành nên tiền thuê gia công, tiền phí gia công (nếu tổ chức, cá nhân vi phạm có đầy đủ hồ sơ, chứng từ để chứng minh tính hợp pháp, hợp lệ của các chi phí đó).

Trường hợp tổ chức, cá nhân vi phạm chuyển nhượng, tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái quy định của pháp luật đối với hàng hóa gia công thì số lợi bất hợp pháp phải nộp vào ngân sách nhà nước là toàn bộ số tiền nêu trên cộng (+) số tiền bằng với trị giá tang vật vi phạm hành chính có được do đã chuyển nhượng, tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái quy định của pháp luật.

Trường hợp chuyển nhượng, tiêu thụ hàng cấm, hàng giả, hàng hóa nhập lậu hoặc cung cấp dịch vụ kinh doanh có điều kiện thì số lợi bất hợp pháp có được bằng tiền là toàn bộ số tiền tổ chức, cá nhân thu được từ việc chuyển nhượng, tiêu thụ hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ đó.

Về xác định số lợi bất hợp pháp là giấy tờ có giá, Thông tư số 65/2022/TT-BTC hướng dẫn, số lợi bất hợp pháp có được bằng giấy tờ có giá là toàn bộ giấy tờ có giá mà tổ chức, cá nhân vi phạm thu được từ hành vi vi phạm hành chính. Giấy tờ có giá này là các loại giấy tờ có giá theo quy định của Bộ Luật Dân sự và các loại giấy tờ có giá khác theo quy định của Luật chuyên ngành.

Trường hợp giấy tờ có giá đã được chuyển nhượng thì số lợi bất hợp pháp được xác định bằng số tiền thực tế thu được tại thời điểm chuyển nhượng. Trường hợp giấy tờ có giá đã bị tẩu tán, tiêu hủy thì số lợi bất hợp pháp được xác định theo giá trị sổ sách của tổ chức phát hành giấy tờ có giá tại thời điểm tẩu tán, tiêu hủy.

Thông tư số 65/2022/TT-BTC cũng hướng dẫn xác định số lợi bất hợp pháp là vật, tài sản khác. Theo đó, số lợi bất hợp pháp là vật, tài sản khác mà tổ chức, cá nhân vi phạm thu được từ hành vi vi phạm hành chính là các tài sản khác theo quy định của Bộ Luật Dân sự.

Trường hợp vật, tài sản khác không phải hàng cấm, hàng giả, hàng hóa nhập lậu đã được chuyển nhượng, tiêu thụ hoặc tiêu hủy thì số lợi bất hợp pháp được xác định bằng số tiền tương đương giá trị thị trường của tài sản cùng loại hoặc xác định theo giá trị sổ sách của tài sản (nếu không có giá trị thị trường) hoặc xác định bằng giá trị tiền của tài sản ghi trên tờ khai hàng hóa xuất khẩu, tờ khai hàng hóa nhập khẩu (nếu là hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu) của tổ chức, cá nhân vi phạm sau khi trừ chi phí trực tiếp cấu thành hàng hóa căn cứ vào hồ sơ, chứng từ chứng minh tính hợp pháp, hợp lệ của các chi phí đó.

Trường hợp vật, tài sản khác là hàng cấm, hàng giả, hàng hóa nhập lậu đã được chuyển nhượng, tiêu thụ thì số lợi bất hợp pháp được xác định là tổng số tiền mà tổ chức, cá nhân nhận được khi thực hiện chuyển nhượng.

Theo Thông tư số 65/2022/TT-BTC, về xác định số tiền phải nộp đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đã bị tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái quy định của pháp luật, trường hợp tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái quy định của pháp luật thì tổ chức, cá nhân vi phạm phải nộp lại số tiền tương đương trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đã bị tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái quy định của pháp luật.

Phương Ngân (T/h)

Bài liên quan
Tin bài khác
Nhìn nhận pháp lý về Hợp đồng kinh tế giữa Công ty Xây dựng Quảng Hồng và đối tác

Nhìn nhận pháp lý về Hợp đồng kinh tế giữa Công ty Xây dựng Quảng Hồng và đối tác

Ngày 21/02/2011, Công ty Xây dựng Quảng Hồng (nay là Công ty Cổ phần Xây dựng Quảng Hồng, trụ sở tại tổ 1, khu Nam Sơn 2, phường Cửa Ông, tỉnh Quảng Ninh) ký Hợp đồng kinh tế số 05/2011/HĐKT-XDQH với ông Phạm Văn Dũng và bà Phạm Thị Thất, trú tại xã Phụng Công, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên (cũ).
Từ 30/11, doanh nghiệp chậm đóng bảo hiểm xã hội quá 60 ngày bị coi là trốn đóng

Từ 30/11, doanh nghiệp chậm đóng bảo hiểm xã hội quá 60 ngày bị coi là trốn đóng

Theo Nghị định 274/2025/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 30/11, người sử dụng lao động nếu chậm đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc hoặc bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) quá 60 ngày, dù đã được cơ quan chức năng đôn đốc bằng văn bản, sẽ bị xem là trốn đóng.
Hoàn thiện thể chế, chính sách nâng cao hiệu quả trợ giúp pháp lý trong kỷ nguyên mới

Hoàn thiện thể chế, chính sách nâng cao hiệu quả trợ giúp pháp lý trong kỷ nguyên mới

Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2026 của Quốc hội để sửa đổi, là bước đi quan trọng nhằm hoàn thiện thể chế, chính sách, đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong bối cảnh chuyển đổi số và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Đưa công tác trợ giúp pháp lý lên không gian số - xu hướng tất yếu trong xây dựng chính quyền phục vụ

Đưa công tác trợ giúp pháp lý lên không gian số - xu hướng tất yếu trong xây dựng chính quyền phục vụ

Trong bối cảnh chuyển đổi số quốc gia đang được đẩy mạnh, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác phổ biến, giáo dục và trợ giúp pháp lý đang trở thành hướng đi tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, tăng khả năng tiếp cận pháp luật của người dân.
Ứng dụng trợ giúp pháp lý trên điện thoại di động - chuyển đổi số vì người yếu thế

Ứng dụng trợ giúp pháp lý trên điện thoại di động - chuyển đổi số vì người yếu thế

Trong bối cảnh chuyển đổi số quốc gia và cách mạng công nghiệp 4.0 đang lan tỏa mạnh mẽ, việc đưa công nghệ vào lĩnh vực trợ giúp pháp lý được xem là một bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng cách tiếp cận công lý giữa các nhóm đối tượng trong xã hội.
Tăng cường cơ chế phối hợp, phản ứng nhanh trong hoạt động trợ giúp pháp lý

Tăng cường cơ chế phối hợp, phản ứng nhanh trong hoạt động trợ giúp pháp lý

Sở Tư pháp tỉnh Lào Cai tổ chức Hội nghị tập huấn về cơ chế phối hợp, phản ứng nhanh giữa các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan liên quan trong việc cung cấp trợ giúp pháp lý và các dịch vụ hỗ trợ cho nhóm đối tượng đặc thù.
Tăng cường truyền thông trợ giúp pháp lý, bảo đảm quyền lợi cho người cao tuổi

Tăng cường truyền thông trợ giúp pháp lý, bảo đảm quyền lợi cho người cao tuổi

Công tác truyền thông về trợ giúp pháp lý đang trở thành cầu nối quan trọng giúp người cao tuổi hiểu rõ hơn về quyền được pháp luật bảo vệ, chủ động tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ khi cần thiết.
Củng cố mạng lưới trợ giúp pháp lý: Chung tay bảo vệ nhóm yếu thế

Củng cố mạng lưới trợ giúp pháp lý: Chung tay bảo vệ nhóm yếu thế

Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý – Bộ Tư pháp tổ chức Hội nghị tập huấn kỹ năng trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực gia đình và người dân tộc thiểu số.
Trợ giúp pháp lý – Cầu nối pháp luật đến với đồng bào dân tộc thiểu số

Trợ giúp pháp lý – Cầu nối pháp luật đến với đồng bào dân tộc thiểu số

Công tác trợ giúp pháp lý cho đồng bào dân tộc thiểu số luôn được Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh số 1 (thuộc Sở Tư pháp Quảng Ngãi) duy trì và mở rộng nhiều năm qua.
Quảng Ninh: Đưa pháp luật đến gần dân qua hoạt động trợ giúp pháp lý tại cơ sở

Quảng Ninh: Đưa pháp luật đến gần dân qua hoạt động trợ giúp pháp lý tại cơ sở

Ngày 10/10, Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước (Sở Tư pháp tỉnh Quảng Ninh) phối hợp với UBND phường Móng Cái 1 tổ chức 3 hội nghị trợ giúp pháp lý tại cơ sở, thu hút hơn 300 đại biểu là cán bộ, hội viên các đoàn thể và người dân trên địa bàn tham dự.
Nâng cao nhận thức pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người dân Phú Thọ

Nâng cao nhận thức pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người dân Phú Thọ

Thực hiện Kế hoạch công tác trợ giúp pháp lý năm 2025, ngày 10/10, Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý (Bộ Tư pháp) đã phối hợp với địa phương tổ chức Hội nghị tập huấn nâng cao kiến thức về trợ giúp pháp lý tại xã Thung Nai, tỉnh Phú Thọ.
Tập huấn Kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin đánh giá chất lượng, hiệu quả trợ giúp pháp lý

Tập huấn Kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin đánh giá chất lượng, hiệu quả trợ giúp pháp lý

Hội nghị đã được tổ chức tại TP Huế, nhằm triển khai Kế hoạch dự án "Tăng cường trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng yếu thế" do Ngân hàng thế giới tài trợ từ nguồn hỗ trợ của Quỹ Phát triển xã hội Nhật Bản.
Hàng trăm đại biểu tại TP Huế được tập huấn kiến thức về trợ giúp pháp lý

Hàng trăm đại biểu tại TP Huế được tập huấn kiến thức về trợ giúp pháp lý

Trong hai ngày 6-7/10/2025, Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp đã tổ chức các Hội nghị nâng cao năng lực, kiến thức về trợ giúp pháp lý cho người có uy tín và đội ngũ cán bộ ở cơ sở tại thành phố Huế.
Đẩy mạnh trợ giúp pháp lý: Đưa chính sách nhân văn đến gần đồng bào vùng cao Lào Cai

Đẩy mạnh trợ giúp pháp lý: Đưa chính sách nhân văn đến gần đồng bào vùng cao Lào Cai

Trợ giúp pháp lý là một trong những chính sách an sinh xã hội mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước, thể hiện tinh thần “không để ai bị bỏ lại phía sau” trong tiếp cận công lý.
Tránh bỏ sót quyền được trợ giúp pháp lý: Cần đảm bảo thực hiện ở mọi giai đoạn tố tụng

Tránh bỏ sót quyền được trợ giúp pháp lý: Cần đảm bảo thực hiện ở mọi giai đoạn tố tụng

Việc giải thích quyền được trợ giúp pháp lý cho người tham gia tố tụng là một nguyên tắc cơ bản, thể hiện tinh thần nhân đạo và cam kết bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, sau hơn 7 năm thực hiện Thông tư liên tịch số 10/2018, nhiều vướng mắc đã bộc lộ, đòi hỏi phải sửa đổi để không bỏ sót đối tượng có nhu cầu trợ giúp pháp lý trong thực tế tố tụng.