Tháo gỡ “nút thắt” trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ chè Shan tuyết Hà Giang

23:55 27/09/2021

Chè Shan tuyết Hà Giang có đặc điểm lá to, búp và lá non có nhiều lông trắng như tuyết và được trồng trên độ cao so với mực nước biển từ 300 đến trên 1000 mét, quanh năm mây mù bao phủ, nên chè Shan tuyết Hà Giang có hương thơm đặc biệt, vị tinh túy ngọt hậu và được nhiều du khách thập phương biết đến từ nhiều năm nay.

Hà Giang có diện tích chè đứng thứ 3 cả nước, với trên 20.000 ha chủ yếu là chè Shan tuyết, diện tích cho thu hoạch là gần 18 nghìn ha; năng suất bình quân đạt khoảng 39 tạ/ha/năm; sản lượng chè búp tươi bình quân là 70.000 tấn/năm. 

Trong đó, diện tích chè Shan tuyết sản xuất theo tiêu chuẩn VietGap và hữu cơ có 9.382 ha, toàn tỉnh hiện có 257 cơ sở chế biến chè đang hoạt động; trong đó có 11 doanh nghiệp, 22 cơ sở HTX; tổng công suất các cơ sở chế biến đạt trên 14.320 tấn/năm, giá trị sản xuất ngành chè đem lại là trên 553 tỷ đồng. Những năm qua, cây chè được Hà Giang xác định là một trong 6 sản phẩm hàng hóa chiến lược ưu tiên phát triển trong Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Tỉnh có nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ bảo tồn giống chè, khuyến khích sản xuất theo hướng an toàn, ứng dụng khoa học công nghệ trong chế biến nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm, từ đó đã giúp nâng cao thu nhập cho các doanh nghiệp, HTX và người dân sản xuất chè...

Để nâng cao giá trị chè, tăng thu nhập cho người dân theo hướng bền vững, các ý kiến tại Hội thảo tư vấn, phản biện “Đánh giá những nút thắt/hạn chế chủ yếu trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ chè Shan tuyết Hà Giang và đề xuất giải pháp nâng cao giá trị, tăng thu nhập cho người dân” cho rằng: Hà Giang cần tiếp tục tuyên truyền người dân sản xuất chè theo tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ với sản phẩm là hàng hóa “sạch”; khuyến khích, đẩy mạnh chế biến sâu với đa dạng chủng loại sản phẩm dựa trên đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực chế biến và áp dụng nghiêm ngặt hệ thống quản lý chất lượng; làm tốt công tác đánh giá, dự báo, nắm chắc thông tin thị trường, hỗ trợ xúc tiến thương mại và thúc đẩy xuất khẩu; đẩy mạnh chuỗi liên kết từ khâu sản xuất, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm với sự tham gia tích cực của “4 nhà”; kiểm soát chặt chẽ hệ thống quản lý chất lượng sản xuất, chế biến... nhằm tạo ra những sản phẩm chè hàng hoá có giá trị gia tăng cao, bắt kịp với thị trường trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế…

Đồng thời các chuyên gia đã phân tích, làm rõ những nút thắt, hạn chế trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ chè shan tuyết hiện nay, như: Việc liên kết trong chuỗi giá trị chè từ khâu sản xuất- chế biến đến tiêu thụ chè còn thiếu chặt chẽ; năng lực chế biến hạn chế, thiết bị công nghệ thiếu đồng bộ, chậm đổi mới và chưa quan tâm nhiều tới xây dựng hệ thống quản lý chất lượng, dẫn đến chất lượng sản phẩm chè chưa đồng đều, chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường; đa số sản lượng chè chủ yếu xuất khẩu ở dạng nguyên liệu thô, giá trị thấp...

Quân Vinh