Những cơ hội và thách thức của ngành tre Việt Nam khi hội nhập

09:53 19/08/2022

Dù có đến 1,6 triệu ha diện tích tre luồng, sản phẩm ngành tre Việt Nam vẫn tỏ ra yếu thế khi cạnh tranh với các đối thủ về chất lượng, mẫu mã sản phẩm, công nghệ kém so với các quốc gia khác và giá trị xuất khẩu chỉ đạt chưa đến 400 triệu USD, chiếm 3% trong thương mại tre toàn cầu.

Câu chuyện về đầu ra cho cây tre được làm “nóng” tại Hội thảo “Vai trò của tre nguyên liệu đối với sự phát triển các chuỗi giá trị sản phẩm tre Việt Nam”, do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức ngày 4/8/2022. 

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa.

Phát triển ngành tre theo chuỗi giá trị

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Trần Thanh Nam cho biết: Việt Nam có diện tích tre rất lớn, lên đến 1.592.205 ha, phân bố ở hầu hết các tỉnh trên cả nước, trong đó có 37/63 tỉnh có diện tích trên 10.000 ha. Tài nguyên tre Việt Nam rất phong phú và đa dạng, với hàng trăm loài, trong đó một số loài kinh tế cao như: luồng, lùng, trúc sào, lồ ô, bương, tầm vông, tre gai…

"Tổng trữ lượng tre của cả nước ước tính 6,5 tỷ cây, hàng năm khai thác 500 - 600 triệu cây (tương đương khoảng 2,5-3,0 triệu tấn), cho giá trị xuất khẩu từ 300 - 400 triệu USD/năm".

Trình bày về Dự án Phát triển bền vững và toàn diện chuỗi giá trị nghêu/tre tại Việt Nam (SCBV), TS. Phan Văn Thắng – chuyên gia của Trung tâm nghiên cứu lâm sản ngoài gỗ, cho hay dự án SCBV được triển khai từ tháng 4/2018 đến tháng 4/2023, với tài trợ chính từ EU (chiếm 70% nguồn vốn của dự án).

Kết quả thực hiện dự án, đến nay đã có trên 12.000 nông dân sản xuất quy mô nhỏ trong chuỗi tre được nâng cao năng lực để áp dụng các kỹ thuật sản xuất phù hợp và thực hiện các tiêu chuẩn bền vững (FSC).

Hiện đã có 2 chứng chỉ FSC cho cây tre được cấp cho các nhóm hộ tại Thanh Hóa và Nghệ An. Trong đó, chứng chỉ FSC cho vùng diện tích 2.400 ha cho cây luồng của 545 hộ thuộc 4 xã: Thanh Xuân, Phú Xuân, Phú Sơn, và Phú Lệ, huyện Quan Hóa,Thanh Hóa. Chứng chỉ FSC cho cây Lùng với diện tích 938 ha cho nhóm hộ gồm 212 hộ tại 2 xã Đồng Văn và Thông Thụ, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An.

Dự án cũng hỗ trợ thành công 11 mô hình liên kết thí điểm trồng tre theo chuỗi giá trị. Năm 2021, các tổ nhóm sơ chế mua nguyên liệu tre luồng cho người sản xuất quy mô nhỏ trong vùng trồng Thanh Hóa và Nghệ An với giá cao hơn 40% so với việc bán cho thương lái. Điều này cũng thúc đẩy giá bán nguyên liệu luồng ở Thanh Hóa và Nghệ An được nâng cao trung bình tăng 20-30% so với các năm trước.

Tre Việt Nam mới chiếm 3% thương mại tre toàn cầu

Bà Nguyễn Thị Thanh Huyền, Điều phối viên Dự án SCBV, cho biết, tổng thương mại các sản phẩm từ tre trên toàn cầu đạt 57,86 tỷ USD năm 2021. Dự báo đến năm 2028, quy mô thị trường tre toàn cầu sẽ đạt 82,90 USD. Hiện nay, Trung Quốc là nước xuất khẩu sản phẩm từ tre lớn nhất thế giới, chiếm 67% giá trị thương mại tre toàn cầu, trong khi Việt Nam xếp thứ 6 thế giới về xuất khẩu tre nhưng mới chỉ chiếm 3% tổng giá trị thương mại tre toàn cầu.

“Đối thủ cạnh tranh mà ngành tre Việt Nam phải đối mặt chính là Trung Quốc. Hiện quốc gia này đang thống trị thị trường sản phẩm tre toàn cầu, không chỉ về sản lượng, mà còn về năng lực kỹ thuật và chất lượng. Vì vậy, để cạnh tranh được với mặt hàng tre của Trung Quốc, chất lượng các sản phẩm tre Việt Nam cần phải bằng hoặc tốt hơn hàng của Trung Quốc và giá cả phải phù hợp”, bà Huyền nhấn mạnh.

Theo ông Phạm Quốc Khánh, Trưởng Ban vận động thành lập Hiệp hội Tre Việt Nam, hiện nay thị trường xuất khẩu sản phẩm tre, chủ yếu là tre thủ công mỹ nghệ tới thị trường Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ, nhưng chúng ta đang thiếu sản phẩm tre công nghiệp có giá trị cao.

Trong khi đó, có tới 65% nguyên liệu tre không qua chế biến và chỉ sử dụng cho mục đích có giá trị kinh tế thấp như tre xây dựng, đũa dùng một lần… Ngoài ra, hoạt động marketing của ngành tre vẫn rất kém, thiếu sự phối hợp giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị.

Chỉ ra những khó khăn khi phát triển ngành tre, bà Nguyễn Thị Hoàng Yến, Phó cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, nhấn mạnh, hiện có rất ít nguồn giống tre tốt và đang có dấu hiệu suy thoái giống tre trầm trọng. Diện tích rừng tre đang bị thu hẹp, trình độ canh tác thấp, quy mô sản xuất manh mún, nhỏ lẻ. Trong khi đó, hiện thiếu các chính sách hỗ trợ phát triển và sản xuất kinh doanh ngành tre.

Do đó, theo khuyến nghị của bà Yến, cần đa dạng các sản phẩm làm từ tre; xây dựng các vùng nguyên liệu trồng tre tập trung được cấp chứng chỉ để hướng tới xuất khẩu; thành lập các hợp tác xã, tổ hợp tác trồng tre để xây dựng chuỗi liên kết giữa người dân, hợp tác xã với các doanh nghiệp. Đối với thị trường tiêu thụ, cần tăng cường công tác xúc tiến thương mại, đàm phán mở cửa thị trường thế giới cho các sản phẩm tre; tổ chức tiếp thị, quảng bá các sản phẩm tre có khả năng thay thế sản phẩm gỗ và các vật liệu khác.

Giá trị xuất khẩu tre Việt Nam mới chỉ đạt 348 triệu USD, chưa tương xứng với tiềm năng tre Việt Nam. Hiện xuất khẩu các sản phẩm từ tre của Việt Nam mới chỉ chiếm 3% trong tổng thương mại tre toàn cầu. Với diện tích tre của Việt Nam đứng thứ 4 thế giới, chúng ta hoàn toàn có thể đạt ra mục tiêu chiếm được 10% thương mại tre toàn cầu trong 10 năm tới.

Để ngành tre phát triển nhanh hơn nữa, cần thiết lập Trung tâm nghiên cứu và bảo tồn tre, phát triển giống tre có giá trị kinh tế cao, tạo khu vườn ươm lớn để trồng với diện tích lớn; đào tạo và hỗ trợ kỹ thuật cho người trồng theo mô hình quản lý bền vững có chứng chỉ FSC...

Đề nghị Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho nông dân và các doanh nghiệp được ưu tiên tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng, với lãi suất ưu đãi hơn nữa. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần chủ trì để ban hành các chính sách riêng biệt cho ngành tre. Kiến nghị Bộ Nội vụ hỗ trợ để thành lập Hiệp hội Tre Việt Nam sớm để xây dựng chiến lược phát triển ngành tre.

Hiện hoạt động liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân trồng tre gặp nhiều khó khăn, nông dân khó giữ cam kết về sản lượng, thời gian giao nguyên liệu, chất lượng sản phẩm. Trong khi, công ty rất khó ràng buộc trách nhiệm của nông dân, và phải chịu mọi rủi ro. Đa số trưởng nhóm trồng tre là những người trong tổ nhóm được suy tôn lên, là người lao động trực tiếp, thiếu kỹ năng quản lý nhóm.

Do đó, đề nghị các cấp chính quyền quan tâm đào tạo kỹ năng xây dựng và quản lý cho các trưởng nhóm, mở các khóa đào tạo kỹ thuật thường kỳ cho nông dân trồng tre. Mong Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có chính sách hỗ trợ nông dân trồng tre; có cơ chế rõ ràng để ràng buộc trách nhiệm, gắn liền với quyền lợi của nông dân khi tham gia vào liên kết với doanh nghiệp.

PV