Năng suất lao động của Việt Nam và vai trò của các DNNN

15:24 11/05/2022

Câu hỏi đặt ra cho Việt Nam là làm thế nào để trở thành một nền kinh tế có thu nhập cao, đồng thời tăng năng suất và bảo vệ các nguồn tài nguyên của mình.

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa.

Đây là vấn đề được Manuela V. Ferro, Phó Chủ tịch Ngân hàng Thế giới phụ trách khu vực Đông Á và Thái Bình Dương của Ngân hàng Thế giới, đề cập trong một bài báo "Để thịnh vượng, Việt Nam cần tăng cường hiệu quả". Bà viết: "Để Việt Nam đạt được kết quả chuyển đổi mong muốn, điều cực kỳ quan trọng là phải đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang tăng trưởng dựa trên năng suất."

Câu trả lời cho tăng trưởng năng suất đã quá quen thuộc với Việt Nam vì nhiều năm qua đã có nhiều tổ chức quốc tế và các nhà kinh tế trong nước đánh giá.

Nguy cơ tụt hậu

Thách thức liên quan đến tăng trưởng năng suất chậm và khoảng cách năng suất ngày càng lớn với các nước trong khu vực dẫn đến nguy cơ Việt Nam sẽ tụt hậu hơn nữa trong cuộc đua đường dài về năng suất và tăng trưởng kinh tế.

Một nghiên cứu gần đây của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) cho biết, năng suất lao động của Việt Nam rất thấp so với các nước trong khu vực Đông Nam Á.

Dựa trên sức mua tương đương năm 2011, năng suất lao động của Việt Nam năm 2018 đạt 11.142 USD, tương đương 7,3% của Singapore, 19% của Malaysia, 37% của Thái Lan, 44,8% của Indonesia và 55,9% của Philippines. Trong giai đoạn 2008-2017, năng suất lao động của Việt Nam tăng trung bình 4% mỗi năm.

Điều này cho thấy, với tốc độ tăng năng suất lao động chỉ 4% / năm, Việt Nam sẽ càng tụt hậu về năng suất so với các nước trong khu vực, nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình cao. Theo ước tính, để bắt kịp tốc độ tăng năng suất lao động của các nước láng giềng và thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, năng suất lao động của Việt Nam phải tăng trưởng 6,3-7,3% / năm.

Trong khi đó, Ngân hàng Thế giới tính toán rằng, sau khi đạt được mức thu nhập bình quân đầu người như hiện nay của Việt Nam vào năm 1972, thu nhập bình quân đầu người của Hàn Quốc đã tăng gấp đôi chỉ sau 10 năm và tăng gấp 5 lần sau 20 năm.

Thành tựu nhanh chóng như vậy là kết quả của sự kết hợp giữa việc tăng cường đầu tư vào nguồn lực vật chất và con người, và trên hết là tăng trưởng hiệu quả hoạt động, bằng chứng là sự đóng góp ngày càng tăng của năng suất (tính theo TFP) vào GDP, từ 16% trong Những năm 1970 đến 43% trong những năm 1980 và 56% vào những năm 2000.

Do đó, có thể lập luận rằng Hàn Quốc đã thành công trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế thu nhập trung bình sang nền kinh tế thu nhập cao thông qua việc quản lý hiệu quả hơn các nguồn lực hiện có thay vì chỉ đơn giản là tích lũy thêm nguồn lực.

Tăng trưởng trong các doanh nghiệp nhà nước

Trong khi đó, ở Việt Nam, có rất nhiều lĩnh vực có thể tăng năng suất, đưa nền kinh tế phát triển nhanh và hiệu quả hơn, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước (SOE) là một ví dụ.

Khu vực này có tổng tài sản khoảng 4 triệu tỷ đồng vào năm 2021. Tài sản bình quân của một DNNN đạt khoảng 4.100 tỷ đồng, gấp 10 lần doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và gấp 109 lần doanh nghiệp tư nhân trong nước.

Hiệu quả hoạt động của các DNNN chưa tương xứng với nguồn lực của nó. Khu vực DNNN có xu hướng giảm dần về quy mô và tỷ trọng đóng góp vào tất cả các chỉ tiêu hiệu quả trong giai đoạn 2016-2021. Các DNNN nói chung có tỷ lệ nợ cao nhất trong các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam; họ hoạt động hiệu quả trong rất ít ngành có lợi thế về tự nhiên như khai thác khoáng sản, dầu khí, viễn thông và tài chính ngân hàng.

Các DNNN tuy nắm giữ nguồn lực lớn của nền kinh tế nhưng lại chưa có các dự án đầu tư phát triển đủ lớn để tạo đột phá, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Trong giai đoạn 2016 - 2020, các DNNN không khởi động nhiều dự án quy mô lớn. Họ chỉ tiếp tục triển khai các dự án dở dang hoặc xử lý các dự án kém hiệu quả đã khởi công trong giai đoạn trước.

Đặc biệt, đối với 19 tập đoàn, tổng công ty nhà nước thuộc Ủy ban Quản lý vốn nhà nước và Tập đoàn Viettel, đơn vị nắm gần 90% nguồn lực của toàn khu vực DNNN nhưng chỉ thực hiện ba dự án lớn, trong đó có hai dự án của giai đoạn trước và chỉ có một chiếc được khởi động vào năm 2016.

Việc không tạo thêm năng lực sẽ dẫn đến việc trong năm năm tới, khi đóng góp của khu vực DNNN vào nền kinh tế sẽ rất hạn chế vì đóng góp hiện tại của khu vực này vào GDP của Việt Nam là khoảng 29%.

Các nhà kinh tế cho rằng, với tổng tài sản khoảng 4 triệu tỷ đồng, khu vực DNNN chỉ cần tăng trưởng 10% là có thể giúp nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng. Tuy nhiên, nhiều năm qua, khu vực kinh tế này vẫn chưa làm được.

Gần đây, năng suất lao động của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể qua từng năm. Theo CIEM, năng suất lao động năm 2016 tăng 5,3% so với năm 2015; tăng 6% trong năm 2017; 5,55 phần trăm vào năm 2018; và 6,28% vào năm 2019. Con số đó của năm 2020 cao hơn khoảng 1,5 lần so với năm 2015.

Tốc độ tăng trưởng bình quân toàn xã hội giai đoạn 2016 - 2020 đạt 5,8% / năm, so với 4,3% / năm giai đoạn 2011 - 2015.

Tuy nhiên, mức tăng trưởng này không đủ để giúp Việt Nam đi trước và đề xuất của Ngân hàng Thế giới một lần nữa là rất đúng đắn để cải cách.

Vậy những điều kiện nào để Việt Nam trở thành nền kinh tế công nghiệp hiện đại vào năm 2035?

Theo Báo cáo Việt Nam 2035 do Ngân hàng Thế giới và Chính phủ Việt Nam thực hiện, với GDP bình quân đầu người năm 2014 khoảng 5.370 USD, trong vòng 20 năm tới, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người của Việt Nam tối thiểu phải đạt 6% / năm để đạt 18.000 đô la vào năm 2035.

Với tốc độ tăng trưởng thấp hơn, khả thi hơn (nhưng vẫn đầy tham vọng) là 5 phần trăm mỗi năm, GDP bình quân đầu người của Việt Nam sẽ đạt 15.000 đô la vào năm 2035 và đưa Việt Nam ngang bằng với Brazil vào năm 2014 và đạt 18.000 đô la vào năm 2040.

Với lộ trình tăng trưởng trên 7% / năm, GDP bình quân đầu người của Việt Nam sẽ đạt khoảng 22.200 USD, tương đương với Hàn Quốc năm 2002 hay Malaysia năm 2013. Tốc độ tăng trưởng cao hơn đó sẽ giúp Việt Nam bắt kịp Indonesia và Philippines.

Thục Anh