Nhu cầu tài chính cho việc giảm phát thải ròng về 0 năm 2050 là rất lớn (Ảnh: Minh họa) |
Việc đạt được mục tiêu giảm phát thải ròng về 0 không chỉ đơn thuần là một mục tiêu môi trường mà còn đụng chạm đến nhiều khía cạnh của phát triển kinh tế và xã hội. Để hiện thực hóa mục tiêu này, Việt Nam cần đầu tư mạnh mẽ vào các lĩnh vực then chốt như năng lượng tái tạo, cơ sở hạ tầng xanh, và công nghệ tiết kiệm năng lượng. Cụ thể, việc chuyển đổi từ năng lượng hóa thạch sang năng lượng tái tạo như gió, mặt trời và sinh khối đòi hỏi một khoản đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng và công nghệ mới. Hơn nữa, cải thiện hệ thống giao thông công cộng và xây dựng các công trình xanh sẽ góp phần giảm thiểu lượng khí thải và tạo ra môi trường sống trong lành hơn cho người dân.
Mặc dù số tiền cần đầu tư là rất lớn, nhưng đây cũng là cơ hội để Việt Nam thu hút các nguồn vốn đầu tư quốc tế và thúc đẩy sự phát triển công nghệ xanh trong nước. Chính phủ cần triển khai các chính sách hỗ trợ, bao gồm các ưu đãi thuế và cơ chế khuyến khích đầu tư cho các dự án giảm carbon. Bên cạnh đó, việc hợp tác với các tổ chức quốc tế và khu vực tư nhân sẽ giúp Việt Nam tiếp cận nguồn vốn và công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất vẫn là việc huy động nguồn vốn này từ đâu và làm thế nào để phân bổ hiệu quả để đạt được các mục tiêu đề ra.
Để đạt được mục tiêu giảm phát thải ròng về 0, Việt Nam cần một chiến lược toàn diện và đồng bộ. Điều này không chỉ bao gồm việc xây dựng các chính sách và quy định chặt chẽ mà còn yêu cầu sự đổi mới trong quản lý và đầu tư. Chính phủ và các bên liên quan cần phối hợp chặt chẽ để đảm bảo rằng các khoản đầu tư được thực hiện hiệu quả và mang lại lợi ích lâu dài cho nền kinh tế và môi trường. Việc phát triển các chiến lược sáng tạo và bền vững sẽ giúp Việt Nam không chỉ đối phó với biến đổi khí hậu mà còn thúc đẩy sự phát triển kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.
Trong bối cảnh hiện nay, chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng xanh là một yêu cầu cấp bách. Kế thừa Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2011 – 2020 và tầm nhìn đến 2050, ngày 01/10/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1658/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030, với tầm nhìn đến năm 2050. Mục tiêu của chiến lược là thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn liền với đổi mới mô hình tăng trưởng, đạt thịnh vượng kinh tế, bền vững môi trường và công bằng xã hội, đồng thời hướng tới một nền kinh tế xanh, trung hòa carbon và đóng góp vào mục tiêu hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu.
Trong đó, nhấn mạnh rằng, để đạt được các mục tiêu tăng trưởng xanh, Việt Nam cần nguồn lực rất lớn. Theo ước tính của Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), để thực hiện cam kết phát thải ròng về 0 vào năm 2050, Việt Nam cần khoảng 330 – 370 tỷ USD. Theo Bộ Tài nguyên và Môi trương, nhu cầu tài chính cho các biện pháp giảm phát thải trong lĩnh vực theo cam kết môi trương của Việt Nam đến năm 2030 là khoảng 68,75 tỷ USD. Trong đó, nguồn dự trữ quốc gia thực hiện, dự báo khoảng 24,772 tỷ USD, chiếm 36 % và nhu cầu đối với nguồn lực hỗ trợ của quốc tế dự kiến khoảng 44,028 tỷ USD, chiếm 64%.
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng xanh, Việt Nam sẽ cần một nguồn lực khổng lồ. Theo ước tính của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), việc đạt phát thải ròng về 0 vào năm 2050 sẽ yêu cầu khoảng 330 – 370 tỷ USD. Bộ Tài nguyên và Môi trường ước tính rằng, nhu cầu tài chính cho các biện pháp giảm phát thải theo cam kết môi trường của Việt Nam đến năm 2030 là khoảng 68,75 tỷ USD. Trong đó, dự kiến nguồn lực từ ngân sách quốc gia khoảng 24,772 tỷ USD, chiếm 36%, còn lại 44,028 tỷ USD, tương đương 64%, sẽ cần đến sự hỗ trợ từ quốc tế.
Vậy nên, việc giảm phát thải ròng về 0 đến năm 2050 là một thách thức lớn đối với Việt Nam, nhưng với sự đầu tư đúng mức và chiến lược triển khai hiệu quả, đây là mục tiêu hoàn toàn có thể đạt được. Khoản đầu tư 330 - 370 tỷ USD không chỉ góp phần bảo vệ môi trường mà còn mở ra cơ hội phát triển kinh tế bền vững, tạo việc làm và nâng cao chất lượng cuộc sống. Để hiện thực hóa điều này, cần có sự phối hợp mạnh mẽ giữa chính phủ, doanh nghiệp và cộng đồng quốc tế.
Nghệ Nhân